22 February, 2024 | 15:59
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+

CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG THỰC THI CÔNG VỤ HIỆN ĐẠI: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC VÀ MALAYSIA

I. CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG THỰC THI CÔNG VỤ HIỆN ĐẠI: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC
Hàn Quốc là quốc gia thực hiện tin học hóa hành chính công từ những thập kỷ 70 của thế kỷ 20 đã tận dụng những lợi thế của khoa học, công nghệ, ứng dụng CNTT để triển khai Chính phủ điện tử và trở thành quốc gia có nền CNTT phát triển. Từ năm 2004 đến nay, Hàn Quốc luôn nằm trong nhóm 10 nước phát triển nhất về Chính phủ điện tử tiến tới xây dựng một Chính phủ số thông minh. Nó được xếp hạng trong vị trí thứ hai trong Chỉ số phát triển chính phủ điện tử (EGDI) năm 2020, sau khi nắm giữ vị trí đầu tiên trong 2010, 2012 và 2014. Chỉ số này được kết hợp bởi ba khía cạnh quan trọng của quản trị điện tử: việc cung cấp dịch vụ trực tuyến, kết nối Viễn thông và năng lực con người. Các chiến lược của chính phủ điện tử đang thay đổi sâu sắc cách các chính phủ quản lý hoạt động và dịch vụ của mình. Thông qua số hóa và sử dụng công nghệ thông tin – truyền thông (CNTT-TT), các cơ quan công quyền đang tìm cách thực hiện các chức năng cốt lõi của mình hiệu quả hơn, minh bạch hơn, toàn diện hơn và có trách nhiệm hơn với công dân của mình. Cùng với hàng loạt chương trình hành động đáng kinh ngạc của những đổi mới xuất hiện từ nền kinh tế số, các chiến lược chính phủ điện tử tạo môi trường cho sự phát triển của khu vực công theo hướng thực thi quản trị tốt. Lãnh đạo quốc gia này coi văn hóa số là một trong các trụ cột chính trong thực thi công vụ và được thể hiện bởi các phân tích như dưới đây:
1.Xây dựng văn hóa số dựa trên đạo đức công vụ vì phụng sự quốc gia
Tổng quan về Văn hóa số
Theo cách giải thích đơn giản nhất, văn hóa số hay văn hóa kỹ thuật số là mối quan hệ giữa con người và việc sử dụng công nghệ. Nó mô tả cách các phương tiện truyền thông và công nghệ kỹ thuật số đã định hình cuộc sống hàng ngày và sự tương tác của chúng ta với xã hội, con người và công việc. Phương tiện kỹ thuật số có thể ở dạng bất kỳ thiết bị nào mà người dùng ( công chức chính phủ, người làm công trong các cơ quan chính quyền các cấp; người dân, người đại diện của doanh nghiệp…) có thể nghe, xem, tạo và chia sẻ thông tin. Nó được sử dụng làm phần mềm, trên các trang web, mạng xã hội và thậm chí cả trò chơi điện tử. Từ máy tính đến máy tính bảng và thậm chí cả thiết bị thực tế ảo ps4, tất cả đều sử dụng phương tiện kỹ thuật số. Chấp nhận một nền văn hóa số ngày nay là quan trọng. Văn hóa kỹ thuật số tại nơi làm việc có thể phá vỡ cách thức làm việc truyền thống, nâng cao tính ưu việt và khuyến khích môi trường làm việc hợp tác. Với việc sử dụng phương tiện kỹ thuật số, công việc có thể được ủy quyền dễ dàng và truyền thông tin nhanh nhất có thể.
Luật Đạo đức công vụ của hàn Quốc nêu rõ “Nhà nước đảm bảo sinh kế cho công chức để họ có thể cống hiến hết mình cho sự nghiệp công vụ và nỗ lực xây dựng đạo đức trong hoạt động công vụ”, văn hóa số được quy định tại hầu hết các hoạt động công vụ từ các văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, quy định là văn bản bổ trợ của các luật như: Luật tổ chức hành chính, luật tổ chức chính phủ quốc gia, Đạo luật tổ chức tự quản; luật công chức và các đạo luật khác trong đời sống xã hội của Hàn Quốc. Văn hóa số được thể hiện trước tiên từ khía cạnh tư tưởng tầm nhìn của người đứng đầu nhà nước Hàn Quốc, phải kể đến như sau:
Tại Hội nghị mở rộng xúc tiến tin học hóa được tổ chức tại Nhà Xanh ngày 14 tháng 10 năm 1996. Tổng thống Kim Young-sam cho biết “ Chúng ta cần tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế bằng cách cải thiện thể chế và cơ cấu kinh tế thông qua tin học hóa. để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân cần có kế hoạch tổng thể và liên tục thực hiện chính sách tin học hóa. Trong số đó, tập trung giải quyết các vấn đề tích lũy trong quá trình công nghiệp hóa tăng trưởng bị nén trong 30 năm qua. đảm bảo rằng thành quả của công nghệ thông tin hóa được phân bổ đồng đều cho mọi người dân trong các lĩnh vực như giáo dục , chăm sóc y tế, giao thông vận tải và môi trường .”
Tổng thống Kim Young-sam cho biết: “Tin học là nhiệm vụ quan trọng nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của cả nước”. Ông nhấn mạnh: “Bây giờ là thời điểm mà sự quan tâm, nhiệt tình của người dân đối với an ninh, kinh tế quốc gia lên cao, nhu cầu tin học hóa ngày càng cao”. ① Dẫn đầu hoạt động tin học hóa của chính phủ, ② Ưu tiên đầu tư vào tin học hóa trong các lĩnh vực quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, ③ giải quyết các vấn đề tồn đọng trong quá trình công nghiệp hóa, ④ nuôi dưỡng các ngành công nghiệp phần mềm và video, ⑤ tổ chức lại cơ sở hạ tầng để thúc đẩy tin học hóa và ⑥ thúc đẩy tin học hóa để chuẩn bị cho sự thống nhất được trình bày. Cốt lõi của chiến lược tin học hóa này tập trung vào việc tăng cường khả năng cạnh tranh của chính phủ, các tập đoàn và vốn đầu tư xã hội để nâng cao hiệu quả tổng thể của xã hội và khả năng cạnh tranh công nghiệp thông qua tin học hóa và cuối cùng là cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Sau đó, vào ngày 28 tháng 5 năm 1997, cuộc họp báo cáo mở rộng xúc tiến tin học lần thứ hai được tổ chức. Bộ trưởng phụ trách đã báo cáo tiến độ và kế hoạch công việc trong tương lai về hậu cần, giáo dục, phúc lợi y tế và thông tin hóa địa phương. Cuộc họp báo cáo mở rộng khuyến khích tin học hóa lần thứ ba đã được tổ chức và Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã báo cáo về việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động tin học hóa và các kế hoạch triển khai trong tương lai.
Sự lãnh đạo mạnh mẽ của Tổng thống Dae-Jung Kim trong việc thúc đẩy Chính phủ điện tử này được thể hiện trong Sách trắng về Chính phủ điện tử do chính phủ Hàn Quốc xuất bản năm 2003 “ Nếu không có sự hỗ trợ đầy đủ của Tổng thống cho dự án Chính phủ điện tử, 11 sáng kiến Chính phủ điện tử lớn sẽ không thể hoàn thành mục tiêu của mình. Tổng thống Kim Dae-jung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo ra Chính phủ điện tử trong các bài phát biểu và phát biểu trước các thành viên nội các, bộ trưởng và người dân. Hàng tuần, Tổng thống đều được thông báo về tiến độ của dự án Chính phủ điện tử. Sự ủng hộ và quan tâm mạnh mẽ của Chủ tịch nước đã giúp làm triệt tiêu các quy trình quan liêu giữa các cơ quan trong các cuộc họp của Ủy ban đặc biệt về Chính phủ điện tử. Mối quan tâm bền bỉ này của người cai trị tối cao là sức mạnh lớn nhất trong việc thúc đẩy các dự án Chính phủ điện tử và là nguồn điều phối.”
Sau thiên niên kỷ mới năm 2000, Tổng thống Kim Dae-jung luôn nhấn mạnh việc đẩy mạnh Chính phủ điện tử khi báo cáo công tác các vụ tại từng Bộ. Tổng thống Kim Dae-jung có triết lý quốc gia rằng Chính phủ điện tử sẽ ngăn ngừa tham nhũng và tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia bằng cách nâng cao hiệu quả và tính minh bạch của cơ quan hành chính chính phủ. Dựa trên ý chí mạnh mẽ của Tổng thống trong việc thúc đẩy Chính phủ điện tử, mỗi bộ đều công nhận các dự án Chính phủ điện tử là chương trình nghị sự của tổng thống và đã làm việc chăm chỉ. Trong quá trình này, lần đầu tiên, các dự án Chính phủ điện tử được thực hiện không phải với tư cách một bộ duy nhất mà là một dự án liên bộ. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử tin học hóa của Hàn Quốc. Bằng cách thúc đẩy các dự án liên kết đa bộ này, nền tảng đã được đặt ra để cung cấp dịch vụ nhanh hơn cho người dân. Một sự thật thú vị là bản thân Tổng thống Kim Dae-jung nhấn mạnh đến tin học hóa trong các cuộc gặp với nhiều bộ trưởng, bộ trưởng nhưng bản thân ông không thể vận hành máy tính. Điều quan trọng ở đây là người lãnh đạo không thực hiện mà cầm vô lăng, định hướng để tiến về phía trước. Nói cách khác, kiến thức thực tế về CNTT của Tổng thống là không quan trọng bằng tầm nhìn, đánh giá tầm quan trọng và khát khao hỗ trợ việc sử dụng CNTT cho sự đổi mới của chính phủ.
Ngay sau khi Tổng thống Roh Moo-hyun nhậm chức, ông đã thành lập Ủy ban Phân cấp Đổi mới Chính phủ trực thuộc Chủ tịch nước. Ông đã thành lập một ủy ban Chính phủ điện tử trực thuộc để thúc đẩy các dự án Chính phủ điện tử như một dự án của tổng thống. Dưới chính quyền Roh Moo-hyun, Chính phủ điện tử đã được đưa vào chương trình nghị sự của tổng thống từ chính quyền của ông. Vì vậy, trong 5 năm dưới thời chính quyền Roh Moo-hyun, các dự án Chính phủ điện tử được thúc đẩy mạnh mẽ với sự quan tâm liên tục của Tổng thống. Tổng thống Roh Moo-hyun trực tiếp tham gia vào quá trình triển khai dự án chứ không ở mức độ nhận báo cáo về kết quả của dự án Chính phủ điện tử. Trên thực tế, dưới thời chính quyền Roh Moo-hyun, cuộc họp thanh tra Chính phủ điện tử hàng tuần đã được tổ chức dưới sự giám sát của tổng thống. Khi đó, Chính phủ điện tử không chỉ đơn giản là xây dựng một hệ thống thông tin trong Chính phủ mà là toàn bộ quá trình đổi mới Chính phủ bằng công nghệ thông tin coi việc tin học hóa là công cụ, cải cách thủ tục hành chính gắn với số hóa là căn cốt của chính phủ số thực thi công vụ . Tổng thống Roh Moo-hyun theo đuổi nền hành chính trong sạch, minh bạch và phòng chống tham nhũng thông qua Chính phủ điện tử: “ Trong tương lai, chúng ta sẽ cải thiện cách thức hoạt động của khu vực công, đổi mới quy trình kinh doanh và…. Điều quan trọng là phải thay đổi một cách tự nhiên các chức năng và tổ chức của chính phủ. Ngoài ra, cần có những nỗ lực tích cực để đảm bảo quản lý trong sạch và minh bạch thông qua Chính phủ điện tử.”
Chính quyền Park Geun-hye chính thức thúc đẩy chính sách Chính phủ 3.0 vào tháng 6 năm 2013. Tại Lễ Tuyên bố Tầm nhìn Chính phủ 3.0 lần này, Tổng thống Park Geun-hye đã thay đổi phương thức phục vụ của chính phủ thông qua Chính phủ 3.0, nhưng điều này không có nghĩa là đổi mới toàn diện chính phủ số. Vì vậy, ban lãnh đạo tổng thống chưa bao giờ tiếp tục thể hiện chính sách Chính phủ 3.0 kể cả sau đó. Bài phát biểu của Tổng thống Park Geun-hye như sau.
“ Chính phủ 3.0 là sự chuyển đổi mô hình nhằm chuyển đổi cách thức hoạt động của chính phủ từ lấy quốc gia làm trung tâm sang lấy công dân làm trung tâm, vượt ra ngoài mức độ công bố thông tin.…
Nếu tôi liên lạc với Chính phủ thông qua Chính phủ 3.0 và khu vực tư nhân, chính quyền trung ương, chính quyền địa phương và các cơ quan chính phủ, tôi có thể tìm ra manh mối để giải quyết những vấn đề khó khăn của xã hội chúng ta và cuộc sống của người dân có thể được cải thiện rất nhiều. Tôi có sự tự tin. Chúng tôi hy vọng rằng thông qua tuyên bố về tầm nhìn ngày hôm nay, chính phủ sẽ có thể thay đổi xã hội của chúng ta và làm cho người dân của chúng ta hạnh phúc và giàu có hơn bằng cách chia sẻ nhận thức của họ và đổi mới cách thức hoạt động của chính phủ .”
Tổng thống Moon Jae-in bày tỏ mong muốn phát triển nền kinh tế bằng cách thúc đẩy các ngành công nghiệp CNTT như AI, IoT, Dữ liệu lớn, xe tự hành và máy bay không người lái vào tháng 3 năm 2018, ông đã tổ chức Hội nghị Chiến lược Đổi mới Chính phủ và đưa ra những nhận xét sau: “Có thể nói việc nén các ưu tiên hàng đầu của chính phủ chúng ta về đổi mới bằng một từ để khôi phục tính công khai của chính phủ và dịch vụ công. Đó là thiết lập đúng đắn mối quan hệ giữa người dân, chính quyền, nhân dân và cơ quan công quyền. Tôi muốn nhấn mạnh rằng nền tảng của sự đổi mới của chính phủ là chính phủ của chúng tôi tìm cách thiết lập một nền văn hóa chính phủ thực sự tồn tại vì người dân và đó thực sự là dịch vụ công của người dân. Việc khôi phục phạm vi công của chính phủ và dịch vụ công sẽ là việc ngăn chặn tham nhũng. Vì vậy, chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt đầu đổi mới từ việc chấn chỉnh tình trạng tham nhũng trong quá khứ.” (Bài phát biểu khai mạc Hội nghị Chiến lược đổi mới chính phủ Hàn Quốc lần thứ nhất, ngày 19 tháng 3 năm 2018)
(Hình 1: Quá trình phát triển tin học hóa, chính phủ điện tử và chính phủ thông minh của Hàn Quốc)

( Hình 2: Triết lý hoạt động chính phủ điện tử của Hàn Quốc quá khứ, hiện tại và tương lai)

Triết lý số của Hàn Quốc gắn chuyển đổi thể chế số ( Digital Governance Transition) và Chính sách chính phủ điện tử ( Digital Government Policy) để xây dựng chính phủ sáng tạo đặt trong môí quan hệ tổng thể các đặc điểm về chính trị, Lãnh đạo cấp cao nhà nước gắn với phát triển hệ thống công nghệ
2.Văn hóa số gắn với chuyển đổi số nhằm xây dựng chính phủ đổi mới sáng tạo và thông minh nhằm phục vụ tốt hơn chính quyền các cấp, người dân và doanh nghiệp
Mục tiêu của Hàn Quốc là dẫn đầu sự đổi mới sáng tạo của chính phủ vì một tương lai bền vững bằng cách:
o Thiết kế và cung cấp các dịch vụ kỹ thuật số vì lợi ích của người dân;
o Đổi mới và tối ưu hóa hành chính công;
o Đảm bảo tính bảo mật, mạnh mẽ và độ tin cậy của các dịch vụ kỹ thuật số;
o Bảo vệ thông tin cá nhân và quyền riêng tư;
o Thúc đẩy chia sẻ và sử dụng dữ liệu công cộng;
o Tăng cường khả năng tương tác
o Ngăn chặn khả năng trùng lặp trong đầu tư của chính phủ
– Văn hóa số của các nhà lãnh đạo và tập thể công chức Hàn Quốc là tất cả sự nỗ lực hướng tới số hóa các cơ cấu quản trị đã diễn ra trong nhiều năm qua. Ngay từ đầu, việc sử dụng CNTT-TT đã được hình thành như một cách để nâng cao hiệu quả quản lý hành chính công và hoạt động, đồng thời chuyển đổi mô hình kinh tế quốc gia hướng tới một xã hội dựa trên tri thức. Số hóa được coi là phương tiện thúc đẩy xã hội toàn diện và công bằng hơn, đồng thời điều chỉnh lại các hoạt động của chính phủ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Các nhà khoa học đã chỉ ra sự thay đổi mô hình trong bối cảnh hành chính công của đất nước khi chính phủ điện tử phát triển. Trong những giai đoạn đầu tiên, động lực hướng tới tính hiệu quả vẫn được coi là công dân đơn thuần là chủ thể của chính phủ và nhường chỗ cho việc thừa nhận người dân là khách hàng của các dịch vụ công. Vào lúc Chính phủ 3.0 được thiết lập, mô hình lại thay đổi đáng kể, lần này là sự công nhận của công dân là cộng tác viên với chính phủ. Sự thay đổi này đã thúc đẩy nỗ lực nâng cao khả năng tiếp cận thông tin khu vực công của người dân và thúc đẩy sự tham gia của người dân vào cải thiện việc cung cấp dịch vụ công.
• Những chuyển đổi trong hành chính công ở Hàn Quốc được thúc đẩy bởi giá trị về mở rộng dân chủ. Các dịch vụ của chính phủ hiện nay được cung cấp theo cách tương tác và được tùy chỉnh theo nhu cầu cá nhân, sử dụng các khả năng được mở ra bởi các công nghệ mới. Hơn nữa, công dân được khuyến khích tích cực bày tỏ quan điểm của mình trong việc hoạch định chính sách thông qua nhiều cơ chế khác nhau. Các yếu tố tiếp tục xúc tác cho sự chuyển đổi trong chính sách công: số hóa, khả năng đáp ứng, tính linh hoạt và quản trị. Quá trình số hóa được hỗ trợ bởi các công nghệ mới, trong khi khả năng đáp ứng luôn tìm kiếm sự đổi mới liên tục và phản ứng với những thay đổi nhanh chóng. Chuyển đổi số đã được định hướng qua các nội hàm: G2G (chính phủ với chính phủ), G2B (chính phủ với doanh nghiệp), G4C (chính phủ vì công dân) và G2C (chính phủ với công dân).
3.Văn hóa số gắn với việc xây dựng nền tảng số giúp cải thiện giao tiếp điện tử giữa chính phủ, chính quyền các cấp với người dân và doanh nghiệp
Hàn Quốc xác định giao tiếp điện tử giữa các cơ quan chính phủ, công chức với người dân và doanh nghiệp là trong các trụ cột chính của hành chính công vụ điện tử với việc ban hành khung tiêu chí và danh mục 100 dịch vụ công trực tuyến . Việc cải thiện giao tiếp điện tử công vụ của Hàn Quốc người viết chia sẻ như dưới đây:
3.1. Nâng cấp dịch vụ công trực tuyến
3.1.1 Mở rộng dịch vụ dân sự trực tuyến
• Bộ Nội vụ và An toàn Hàn Quốc (MOIS) đã phát triển Dịch vụ công trực tuyến (Minwon24), cổng thông tin chính phủ điện tử của Hàn Quốc, cung cấp dịch vụ trực tuyến 24 giờ cho mọi người dân mọi lúc, mọi nơi. Nó nhằm mục đích cung cấp các dịch vụ trực tuyến khác nhau bao gồm thông tin về công việc dân sự, ứng dụng và ban hành các văn bản dân sự mà không cần phải đến các cơ quan hành chính.
• Minwon24 đã nhận được sự công nhận trong nước và quốc tế về sự xuất sắc trong cung cấp dịch vụ công, giành được Giải thưởng Khảo sát Thương hiệu và Sự hài lòng của Khách hàng năm 2010 của Hàn Quốc và Giải thưởng Dịch vụ Công của Liên Hợp Quốc năm 2011.
• Để nâng cao sự thuận tiện cho người dùng, MOIS đã đơn giản hóa thủ tục đăng ký đối với 10 dịch vụ dân sự (ví dụ: đăng ký cư trú, giáo dục và đăng ký xe) liên quan chặt chẽ nhất đến cuộc sống hàng ngày.
• Với hơn một triệu cư dân nước ngoài và các gia đình đa văn hóa (khoảng 180.000 dân) sống ở Hàn Quốc, MOIS cung cấp các mẫu đơn đăng ký đa ngôn ngữ cho các dịch vụ cụ thể, áp dụng cách tiếp cận toàn diện nhằm cung cấp các dịch vụ hành chính thuận tiện hơn cho nhiều đối tượng khách hàng.
3.1.2. Phát triển công nghệ để ứng dụng đối với giao tiếp giữa chính phủ với người dân ( E-Interaction)
Hàn Quốc phát triển Dịch vụ trợ lý ảo dành cho công dân (GoodPy) gửi thông báo liên quan đến các vấn đề hành chính cá nhân và trả lời các câu hỏi thông qua các ứng dụng di động được sử dụng phổ biến như Naver App, KakaoTalk, Toss. Người dùng có thể đăng ký GoodPy thông qua các ứng dụng khu vực tư nhân được sử dụng phổ biến và nhận thông báo về các dịch vụ như lịch tiêm chủng, gia hạn giấy phép lái xe, đơn xin học bổng quốc gia, v.v.
từ các cơ quan khác nhau chỉ bằng một yêu cầu. Tiền phạt hoặc tiền xử lý vi phạm hành chính cũng có thể được nộp theo yêu cầu.
Tạo lập các Chatbot dựa trên AI dành cho công dân: công dân có thể yêu cầu và nhận thông tin cũng như thông báo cần thiết từ các cơ quan chính phủ thông qua ứng dụng nhắn tin hoặc diễn giả AI mà họ lựa chọn mà không cần phải truy cập cổng thông tin chính phủ (GOV.KR). Kênh một cửa cung cấp hướng dẫn giải đáp thắc mắc trong 11 lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả những lĩnh vực liên quan đến rừng giải trí và Đạo luật bảo vệ thông tin cá nhân. Dịch vụ này cũng cung cấp các dịch vụ tùy chỉnh như giải đáp các thắc mắc về Mã thông quan cá nhân và khoản trợ cấp thôi việc dự kiến cho các công chức, viên chức nhà nước.
ID di động: Từ nền tảng ID ( căn cước số) dành cho quan chức chính phủ, MOIS có kế hoạch mở rộng dịch vụ sang các loại ID khác bao gồm cả giấy phép lái xe. Người dân sẽ có thể tận hưởng các dịch vụ của chính phủ bằng ID kỹ thuật số thay vì ID nhựa hiện tại. ID kỹ thuật số di động và xác thực thân thiện với người dùng triển khai xác thực an toàn và thuận tiện với các công nghệ mới như blockchain, sinh trắc học và IOT; Thông báo dịch vụ chủ động và ứng dụng một cửa; Cung cấp thông báo được cá nhân hóa về tính đủ điều kiện của dịch vụ, ngày đến hạn, sự kiện, v.v. Tài liệu và ví điện tử: công dân và cư dân Hàn Quốc có thể chỉ cần lưu trữ chứng chỉ kỹ thuật số được cấp trên cổng hoặc ứng dụng GOV.KR trong “Ví kỹ thuật số” của riêng họ để xác minh hoặc gửi mà không cần phải in và gửi trực tiếp cho tổ chức bên thứ ba.
Dữ liệu của tôi ( My data): công dân có thể trực tiếp quản lý thông tin cá nhân của họ do các cơ quan chính phủ nắm giữ. My Data cho phép công dân chọn dữ liệu cần thiết để chia sẻ khi đăng ký và nhận các dịch vụ của chính phủ, giúp họ kiểm soát dữ liệu của chính mình. MyData và chứng chỉ kỹ thuật số rất phổ biến ở Hàn Quốc cho các dịch vụ không tiếp xúc. • Triển khai trao đổi thông tin số hóa hoàn toàn cho các dịch vụ công. Giúp công dân ủy quyền và kiểm soát việc chia sẻ dữ liệu của chính họ. Giúp chính phủ thu thập thông tin hiệu quả hơn. Bảo vệ quyền riêng tư của mọi người bằng cách giảm thiểu giao dịch thông tin dư thừa.
Dịch vụ trợ lý ảo cho công dân tích hợp với loa AI: Dịch vụ này cung cấp hướng dẫn bằng âm thanh về 5.000 loại câu hỏi dân sự khác nhau nhằm đáp ứng các lệnh đơn giản, cho phép những người bị bỏ lại phía sau về mặt kỹ thuật số, chẳng hạn như người già và người khuyết tật, có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ dân sự.
• Nền tảng dựa trên ngôn ngữ tự nhiên có thể được tích hợp với các giải pháp chatbot và Dịch vụ trợ lý AI để cung cấp dịch vụ công và thông tin liên quan cho người dân.

(Hình 3: Nền tảng dịch vụ trợ lý ảo cho công dân)
3.2. Chính phủ điện tử phục vụ công dân 247 (Digital Government serving citizens 24/7). Citizen-Government Relations
Các dịch vụ Chính phủ số có tác động lớn nhất đến người dân là các đơn và kiến nghị dân sự trên Internet. Những dịch vụ này cho phép công dân nộp đơn kiến nghị và in giấy chứng nhận từ nhà mà không cần phải đến các văn phòng/ cơ quan thuộc chính phủ. Chính phủ kỹ thuật số của Hàn Quốc không chỉ xử lý các dịch vụ này một cách nhanh chóng mà còn tạo điều kiện thuận lợi sự tham gia của người dân thông qua việc công bố thông tin và ý kiến thu thập, thông qua đó các phản hồi được áp dụng để nâng cao độ tin cậy của chính sách
3.3.Cổng Dịch vụ Dân sự một cửa (Chính phủ24)
Cổng thông tin chính phủ này cung cấp một cửa sổ duy nhất cho tất cả các dịch vụ của chính phủ và chính sách của các cơ quan trung ương, tổ chức công và chính quyền địa phương
Người dùng cũng có thể xem, đăng ký và nhận thông tin cũng như chứng chỉ trên cổng thông tin 24/7. Đổi mới các quy trình và hệ thống dịch vụ nhằm phá bỏ rào cản giữa các cơ quan chính phủ để có thể áp dụng một cửa
3.3. Dịch vụ cho công dân
Dựa trên sự kết nối với chính phủ và các dịch vụ công của các tổ chức khác, hệ thống cung cấp thông tin về 5.900 loại dịch vụ, trong đó có 2.500 loại có thể đăng ký trực tuyến.
Hệ thống cung cấp tin tức chính phủ, thông tin chính sách, báo cáo nghiên cứu, thông tin pháp luật và số liệu thống kê mà người dân thường cần đến. Các dịch vụ chính cũng có sẵn trên thiết bị di động để thuận tiện cho người dùng.
Hệ thống quản lý kiến nghị dân sự hợp nhất hệ thống cửa sổ cho hoạt động trực tuyến các kiến nghị của người dân hay Kênh thống nhất kiến nghị, yêu cầu của công dân. Người dân có thể nộp đơn kiến nghị trên tất cả các lĩnh vực và kiểm tra kết quả trên cùng một trang web. Thông báo 3 bước về ‘tiếp nhận-chuyển-kết quả’ cho phép công dân nắm được đơn khởi kiện của mình được xử lý như thế nào. Quản lý tổng hợp các kiến nghị và yêu cầu, Nộp đơn kiến nghị hoặc báo cáo kiến nghị hoặc báo cáo về mọi lĩnh vực – kiến nghị dân sự, báo cáo về tham nhũng của quan chức, lợi ích công cộng
Đối với những kiến nghị, yêu cầu cần xem xét chuyên sâu, hệ thống sẽ thông báo cho người khởi kiện ước tính thời gian xử lý và các bộ phận phụ trách trước khi cung cấp kết quả.
Toàn bộ quá trình xử lý đơn khởi kiện hoàn toàn mở trên website và SNS của hệ thống.
4. Văn hóa số của Lãnh đạo chính phủ và công chức tạo điều kiện cho việc tham gia dân chủ của công dân
Khi kỹ thuật số có những thay đổi mới và cổng thông tin dành cho tham gia của người dân, họ cũng có thể thiết lập quyền truy cập các cơ chế công lý và giúp củng cố các cơ chế cần thiết tăng sự tin tưởng của người dân vào cơ quan công quyền. Cổng thông tin công dân tham gia điện tử của Hàn Quốc (E-people) là một hệ thống đột phá nhằm tăng cường tham gia của công chúng vào hoạt động công vụ với các chức năng cơ bản. Thành công của nó là một trong những lý do khiến đất nước này tiếp tục được xếp hạng cao trên trường quốc tế về các chỉ số phát triển chính phủ điện tử. Chính phủ điện tử là một nền tảng đa ngôn ngữ, từ dưới lên dành cho các chủ đề xuất bản, kiến nghị điện tử thực hiện công dân hướng tới và thảo luận chính sách trực tuyến. Nó mang lại cho công dân một cánh cửa để gây ảnh hưởng lớn hơn 300 tổ chức chính phủ, bao gồm các cơ sở trung ương và cơ sở địa phương. Kể từ khi thành lập, nền tảng này đã cho phép người dân (và cư dân nước ngoài) truyền đạt ý kiến kiến của họ về các chính sách khác nhau, giải quyết các hành vi xâm phạm quyền, vi phạm và quy trình hành động không công bằng. Nó cũng được chứng minh là một công cụ quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng. Hàn Quốc bổ sung một kênh trực tiếp tới Văn phòng Tổng thống, qua đó người dân có thể chuyển thẳng các đề xuất, kiến nghị tới người đứng đầu chính phủ.
5. Dịch vụ Internet dân sự (www.egov.go.kr)
Hàn Quốc xây dựng hệ thống thu thập thông tin về 88.000 dịch vụ của chính phủ, cung cấp thông tin theo từng dịch vụ khu vực và cho phép người dùng tìm kiếm các dịch vụ của chính phủ theo vòng đời và chính phủ tùy chỉnh; dịch vụ hỗ trợ (trợ cấp24); cung cấp dịch vụ Internet dân sự do đó mọi người có thể sử dụng quyền sử dụng dịch vụ hành chính mọi lúc, mọi nơi trên Internet. Mọi người có thể tìm thấy dịch vụ họ cần bằng cách tìm kiếm thông qua 5.300 dịch vụ có sẵn và nhận thông tin chi tiết. Mọi người có thể yêu cầu tới 720 dịch vụ dân sự trực tuyến mà không cần đến văn phòng hành chính và nhận kết quả bằng thư thông thường. Mọi người có thể phát hành 28 tài liệu dịch vụ dân sự trực tuyến.
6. Các giải pháp giao tiếp với người dân qua dịch vụ khiếu nại trên nền tảng số
Hàn Quốc xây dựng cẩm nang quản lý xung đột cho các tổ chức công, Thiết lập hệ thống Quan hệ công chúng để nâng cao niềm tin và giao tiếp của chính phủ ; xây dựng thuật toán gồm danh mục các từ ngữ cần tránh khi giao tiếp điện tử hoặc trong khiếu nại/yêu cầu và phản hồi điện tử và tự động block các giao tiếp không chuẩn mực giữa công dân và công chức.
Người đứng đầu chính quyền Hàn Quốc các nhiệm kỳ đều nhấn mạng tầm quan trong của việc tăng cường sự hài lòng của những người đã nộp đơn khiếu nại thông qua phản hồi chân thành đối với các khiếu nại dân sự. Lập liên kết Kookmin Shinmungo, một cửa sổ xử lý khiếu nại trực tuyến, với hệ thống thông tin pháp lý của Bộ Tư pháp để xác định các luật có nhiều khiếu nại và chuẩn bị các biện pháp cải tiến.
Bộ Giáo dục và Bộ Y tế Hàn Quốc là 2 cơ quan quan trọng ở Hàn Quốc có nhiều giao dịch với công dân nhất đã đi đầu trong việc thiết lập các nền tảng data web ghi nhận, tiếp nhận kiểm tra các khiếu nại và đánh giá sự hài lòng khiếu nại của người dân.
6.1.Bộ Giáo dục Hàn Quốc

6.2.Bộ Y tế Hàn Quốc
https://www.mohw.go.kr/react/index.jsp

II. CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG THỰC THI CÔNG VỤ TẠI MALAYSIA
Malaysia đã bắt tay vào hành trình số hóa kể từ 1996 với sự ra đời của Siêu hành lang đa phương tiện. Thông qua sáng kiến này, Malaysia đã ghi nhận một số những câu chuyện thành công như thu hút trong và ngoài nước về công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) doanh nghiệp hoạt động tại các khu kinh tế đặc thù.
Nhận thức được công nghệ là chiến lược mũi nhọn trong phát triển kinh tế, Chính phủ Malaysia đã thực hiện nhiều sáng kiến và chiến lược nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt, sáng kiến Malaysia Digital Economy Blueprint đã và đang được đẩy mạnh để tận dụng mọi cơ hội của chuyển đổi số và hướng tới mục tiêu một đất nước dẫn đầu về nền kinh tế số. Theo một nghiên cứu của AlphaBeta, nếu được tận dụng tối đa, công nghệ số có thể tạo ra giá trị kinh tế hàng năm là 257,2 tỷ MYR (61,3 tỷ USD) vào năm 2030, tương đương khoảng 17% GDP của Malaysia.
Chính phủ Malaysia mới đây đã phân bổ khoản ngân sách 700 triệu ringgit (165 triệu USD) trong năm 2022 để thúc đẩy kết nối số ở các khu vực công nghiệp, các trường học, chủ yếu là ở các vùng nông thôn với quyết tâm không bỏ lại ai phía sau .
(Hình 1: Bức tranh toàn cảnh hành trình chuyển đổi số của Malaysia, nguồn: National Digitalisation Plan In Malaysia)

( Hình 2: Thành tựu chuyển đổi số của Malaysia, nguồn: National Digitalisation Plan In Malaysia)

Với dân số 32,68 triệu người, Theo Tầm nhìn thịnh vượng chung 2030, Malaysia cần có chính sách rõ ràng và nâng cao nhận thức về việc tạo điều kiện cho người dân thích ứng với nền kinh tế tương lai thay vì chỉ coi họ là người tiêu dùng đơn thuần. Do đó, MyDIGITAL đã được ra mắt. MyDIGITAL là một sáng kiến quốc gia thể hiện mong muốn của chính phủ trong việc biến Malaysia thành công thành một quốc gia có thu nhập cao, được định hướng kỹ thuật số và là quốc gia dẫn đầu khu vực về nền kinh tế kỹ thuật số. Ba mục tiêu của MyDIGITAL là truyền cảm hứng cho những người ra quyết định trở thành người sáng tạo, người dùng và người áp dụng các mô hình kinh doanh đổi mới; sử dụng vốn nhân lực để phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế số; và nuôi dưỡng một hệ sinh thái hợp nhất giúp trao quyền cho xã hội nắm bắt nền kinh tế kỹ thuật số. Chính phủ Malaysia luôn coi trọng chuyển đổi số gắn với phát triển kinh tế và cải cách hành chính. Văn hóa số trong thực thi công vụ được người đứng đầu Nhà nước và các Bộ Ban ngành, chính quyền các cấp Malaysia quan tâm, nghiêm túc thực thi theo các khía cạnh tiếp cận của người viết báo cáo, như sau:
1. Thông điệp của người đứng đầu chính phủ Malaysia về văn hóa số và văn hóa công vụ
Tầm nhìn 2020 của Malaysia là hướng tới trở thành nước phát triển thúc đẩy chính phủ tái cơ cấu bộ máy quản lý của mình thông qua công nghệ thông tin , chuyển đổi quy trình hành chính của chính phủ và cung cấp dịch vụ thông qua việc sử dụng Công nghệ thông tin và Đa phương tiện. Nó cũng hình dung ra một tương lai nơi tất cả các thành phần của xã hội có thể giao tiếp và giao dịch hoạt động của họ một cách năng suất và hiệu quả.
Đầu năm mới 2023, Thủ tướng Datuk Seri Anwar Ibrahim đã kêu gọi Nội các và các công chức thoát khỏi văn hóa hài lòng của họ và nghiêm túc thực hiện những thay đổi trong nền hành chính quốc gia. Trong bài phát biểu hàng tháng đầu tiên với các viên chức Chính phủ , ông nói rằng trong bất kỳ hệ thống nào, đều phải có mong muốn mang lại sự thay đổi. “Hệ thống đã được củng cố hàng chục năm nhưng phải khiêm tốn thừa nhận… có điểm mạnh nhưng khi có người mới thì phải có khát vọng mang lại sự thay đổi… chúng ta không được để nền văn hóa hài lòng làm chúng ta sa lầy,”. Ông nói: “Điều quan trọng nhất là đất nước phải ổn định về chính trị, có đường hướng rõ ràng và mạnh mẽ với mong muốn mang lại sự thay đổi để khôi phục phẩm giá của mình”. Với một số biện pháp đã được công bố nhằm nâng cao mức độ hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề, Anwar cho biết ông muốn mọi hành động phải được thực hiện một cách minh bạch.

Các cơ quan Chính phủ và công chức phải làm rõ, làm sâu sắc cho người dân và doanh nghiệp thông hiểu, tại sao Phải chuyển đổi số?. Đó là

– Đáp ứng kỳ vọng của người dân;
– Chuyển đổi số trước tiên, chú trọng đến người dân
– Cách thức mới cung cấp dịch vụ công
– Từ đầu đến cuối, người dùng giao diện thân thiện, các dịch vụ được cá nhân hóa
– Chia sẻ dữ liệu liên cơ quan;
– Cho phép và khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh mới

Malaysia quy định cách một tổ chức thấm nhuần văn hóa số nơi dữ liệu số là cốt lõi?, TĂNG CƯỜNG CUNG CẤP DỊCH VỤ VỚI VỊ TRÍ NGƯỜI DÂN LÀ TRUNG TÂM , là:
(1). Giảm quan liêu
(2). Cải tiến quy trình cung cấp tới việc tăng khả năng phản hồi
(3). Tận dụng dữ liệu để nâng cao kết quả và chi phí thấp hơn
(4). Mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ
5. Tăng cường trách nhiệm (minh bạch và hiệu quả)

(Hình 3: Cách mà một tổ chức thấm nhuần văn hóa số nơi dữ liệu là cốt lõi , nguồn: National Digitalisation Plan In Malaysia )
2. Ưu tiên chuyển đổi số các Bộ, cơ quan thuộc chính phủ để phục vụ người dân, doanh nghiệp vì nền hành chính hiện đại, hiệu quả, thông minh.
Chính phủ Malaysia yêu cầu các Bộ ngành đều phải có chuyên gia tường minh về ICT và chuyển đổi số. Bằng chứng cho thấy các Bộ đều được bố trí nhân sự Giám đốc chuyển đổi số và có triết lý hoạt động tương đối giống nhau là cải thiện văn hóa số, phát triển công nghệ số, gắn kết các nguồn lực phụng sự quốc gia và công dân, như sau :
• Dẫn dắt các sáng kiến số hóa tại các bộ/cơ quan thông qua việc sử dụng dữ liệu, phân tích và công nghệ số;
• Tạo ra văn hóa dựa trên dữ liệu trong khu vực công, thực hiện cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc thông qua việc sử dụng dữ liệu và công nghệ kỹ thuật số;
• Chuyển đổi việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật số ở các bộ/cơ quan tập trung vào trải nghiệm của khách hàng dựa trên khái niệm Toàn Chính phủ thông qua đổi mới liên quan đến chia sẻ dữ liệu, dữ liệu mở và các công nghệ mới nổi;
• Đánh giá, điều phối, chứng nhận các yêu cầu dịch vụ kỹ thuật số, ngân sách Thiết kế và phát triển Dịch vụ Kỹ thuật cũng như quản lý các cơ quan với tư cách là người thực hiện các sáng kiến và dự án số hóa;
• Dẫn đầu sự thay đổi thông qua việc điều chỉnh Kế hoạch chiến lược số hóa (PSP) của Bộ/Nhà nước/Cơ quan
• Tăng cường cơ cấu quản trị số hóa của cơ quan và điều phối việc sử dụng các chính sách, tiêu chuẩn và thông lệ tốt nhất trên toàn cầu.
• Dẫn dắt và lôi kéo các cơ quan tham gia vào các nỗ lực của chính phủ nhằm xây dựng và triển khai các dự án CNTT trong khu vực công nhằm mang lại sự thay đổi trong việc quản lý và điều hành các Dịch vụ Công .
Sự cống hiến của Malaysia cho chuyển đổi kỹ thuật số nhấn mạnh nỗ lực của quốc gia về các dịch vụ công hiệu quả và dễ tiếp cận
Mục tiêu chính là trao quyền cho lực lượng lao động dịch vụ công có trình độ kỹ thuật số, vì tầm quan trọng của công nghệ kỹ thuật số ngày càng trở nên rõ ràng trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân và các bên liên quan.
Sự nhấn mạnh mạnh mẽ vào số hóa này là một phần của xu hướng toàn cầu rộng lớn hơn, trong đó các chính phủ thừa nhận tiềm năng biến đổi của công nghệ kỹ thuật số trong khu vực công. Ưu điểm của các khoản đầu tư như vậy rất đa dạng, bao gồm:
• Hiệu quả nâng cao: Chuyển đổi kỹ thuật số hợp lý hóa các quy trình, giảm đáng kể tình trạng quan liêu và giấy tờ quan liêu. Điều này dẫn đến việc cung cấp dịch vụ nhanh chóng và hiệu quả hơn, một khía cạnh quan trọng của quản trị đáp ứng.
• Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình: Các hệ thống kỹ thuật số vốn đã bao gồm các tính năng như quy trình kiểm toán tích hợp và cơ chế minh bạch. Điều này đảm bảo mức độ trách nhiệm giải trình cao trong các dịch vụ của chính phủ, nâng cao hơn nữa niềm tin của công chúng.
• Khả năng tiếp cận: Các dịch vụ kỹ thuật số, hoạt động 24/7, cung cấp cho người dân sự linh hoạt để tương tác với các cơ quan chính phủ một cách thuận tiện. Tính linh hoạt này đặc biệt quan trọng đối với những người có lịch trình bận rộn hoặc khả năng di chuyển hạn chế.

(Hình 4: Yêu cầu thay đổi của Chính phủ điện tử-nguồn: National Digitalisation Plan In Malaysia)

Chính phủ Malaysia xác định các yêu cầu của Chính phủ điện tử đối với nhân lực trong khu vực công:
– Đầu tiên là tư duy và công nghệ số kỹ thuật cao thích ứng xuyên suốt với khu vực công
– Thứ hai: cần xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tham gia số hóa
-Thứ ba: Nuôi dưỡng nguồn nhân lực sẵn sàng cho tương lai
-Thứ tư: Thiết bị số giữa thu nhập và các nhóm tuổi, giữa các giới thín ngày cần phải thu hẹp
-Thứ Năm: Cần xây dựng đức tin và đạo đức trong sử dụng dữ liệu, công nghệ và nâng cao nhận thức về an ninh mạng
Malaysia xác định các ứng dụng chính phủ điện tử trên điện thoại phải đạt các lợi ích sau:
***) Với Công chúng
– Cung cấp dịch vụ chính phủ chất lượng tốt hơn;
– Các ứng dụng đáng tin cậy và an toàn
– Các ứng dụng di động chính phủ đơn lẻ;
– Dịch vụ chính phủ là luôn sẵn sàng mọi lúc, mọi nơi
***) Với Chính phủ
– Tiết kiệm chi phí thông qua chia sẻ hạ tầng số
– Hạ tầng được đặt ở khu vực bảo đảm
– Tăng tốc độ phục vụ công dân;
– Thu hút thế hệ mới sử dụng dịch vụ của chính phủ
– Cải tiến hình ảnh của chính phủ đến người dân

Hình 5: Các lợi ích của Ứng dụng điện thoại di động Chính phủ Malaysia (GAMMA); nguồn: National Digitalisation Plan In Malaysia

3. KHUYẾN KHÍCH THAM GIA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

Malaysia xác định mục tiêu của Tham gia điện tử là thu hút người dân tham gia vào chính sách phát triển và quá trình ra quyết định thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. CÁC khía cạnh văn hóa số được đề cập như sau:
(1). Bất kỳ tuyên bố nào chạm đến sự nhạy cảm của các chủng tộc, tôn giáo và chính trị đồng bào đều bị nghiêm cấm;
(2).Nghiêm cấm hạ nhục, công kích cá nhân và đưa ra những phát ngôn có thể xúc phạm đến cảm xúc của người tham gia khác;
(3). Kiểm soát các phát biểu của mình, tránh sử dụng ngôn ngữ lăng mạ và chủ nghĩa dân tộc.
(4). Không nên trò chuyện hoặc gửi những câu lạc đề khỏi chủ đề chính.
(5). Các chủ đề và liên kết đến các trang web tục tĩu hoàn toàn bị CẤM
Cùng với Singapore, Thái Lan, Philipines. Năm 2010 Malaysia đã xây dựng Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân ( Luật 709) nhằm khẳng định văn hóa số cung cấp dịch vụ công và phụng sự người dân của Chính phủ. Mục tiêu chính của Đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân của Malaysia (PDPA) quy định việc thu thập, ghi lại, lưu giữ hoặc lưu trữ dữ liệu cá nhân và thực hiện bất kỳ hoạt động nào trên dữ liệu cá nhân cho các giao dịch thương mại. Trong khi đó Việt Nam mới xây dựng Nghị định Bảo vệ dữ liệu cá nhân : Nghị định 13/NĐ-CP/2023 có hiệu lực từ 1/7/2023 cụ thể hóa Luật An ninh mạng có hiệu lực từ 1/1/2019. Người viết báo cáo nhận thấy với quy mô dân số gần 100 triệu người , hơn 50 triệu thuê bao di động, các nền tảng mạng xã hội đa dạng ; việc chuyển đổi số trong giao dịch không tiền mặt qua ngân hàng phát triển nhanh…Việt Nam cần sớm nâng cấp Nghị định 13 lên thành Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân; cụ thể hóa tinh thần, văn hóa số lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm của chuyển đổi số; bảo vệ tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân trên các nền tảng số và dịch vụ công.
4. CHUYỂN ĐỔI TƯ DUY SỐ CHO NGƯỜI MỚI VÀO HỆ THỐNG CÔNG VỤ
Malaysia xây dựng Chương trình Chuyển hóa Tư duy ( có một phần tư duy số) là khóa học bắt buộc đối với công chức mới được bổ nhiệm và là một trong những điều kiện để được xác nhận vào công vụ. Khóa học này được thực hiện bởi Cụm nghiên cứu đổi mới và phát triển quản lý. Việc lựa chọn người tham gia khóa học sẽ do Bộ Dịch vụ Công cộng (JPA) thực hiện.
Về cơ bản, khóa học này giúp người tham gia hiểu được khái niệm về tinh thần dân tộc, các nguyên tắc và triết lý xây dựng quốc gia, hệ thống hành chính chính phủ và các quy tắc cơ bản của dịch vụ công trong đó có dịch vụ công điện tử. Chính phủ Malaysia quy định bằng văn bản 100% công chức phải có kiến thức cơ bản về chính phủ điện tử

5. XÁC ĐỊNH VÀ LOẠI BỎ RÀO CẢN VĂN HÓA SỐ ĐỐI VỚI KHU VỰC NÔNG THÔN VÀ CÁC ĐỐI TƯỢNG YẾU THẾ ĐỂ THAM GIA
Malaysia là quốc gia đang phấn đấu trở thành quốc gia phát triển năm 2030, hơn 20% GDP đến từ sản xuất nông nghiệp với khoảng 40% dân số sinh sống tại khu vực nông thôn. Nhóm nghiên cứu Nurul Syfa’ Mohd Tokiran; Norhayati Hussin; Mohd Sazili Shahibi Khoa Quản lý công nghệ thông tin, Đại học Bách khoa MARA (UiTM) xác định các thách thức thực thi trong môi trường văn hóa số ở khu vực nông thôn . Theo đó, khu vực nông thôn cần được cải thiện văn hóa số, kỹ năng số để có thể tiếp cận dịch vụ công và thụ hưởng văn hóa số và để không bị bỏ lại phía sau làm mất cơ hội phát triển kinh tế của mình; các yếu tố này bao gồm:

(1)Yếu tố nhân khẩu học
Yếu tố nhân khẩu học như tuổi tác và giới tính quyết định mức độ truy cập internet cũng như internet. Yếu tố tuổi tác được phát hiện có ảnh hưởng đến việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số trong cộng đồng nông thôn ở Malaysia. Thế hệ người già ở cộng đồng nông thôn gặp khó khăn nhất trong việc sử dụng công nghệ số so với thế hệ trẻ. Các chức năng và tính năng khác nhau của các thiết bị kỹ thuật số khiến chúng khó sử dụng hơn; những người lớn tuổi trên 60 tuổi ở Malaysia không nhận được đủ sự hỗ trợ để theo kịp công nghệ số. Có thông tin cho rằng những người lớn tuổi gặp khó khăn trong việc hiểu cách thức hoạt động của công nghệ, do đó họ gặp khó khăn trong việc sử dụng nó một cách chính xác và hiệu quả. Việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số ở thế hệ cũ thấp hơn so với thế hệ trẻ. Khoảng cách này cần được giảm bớt và loại bỏ hơn nữa vì công nghệ mang lại lợi ích cho tất cả các thế hệ. Vì vậy, nghiên cứu về văn hóa số cần được đánh giá bằng cách khám phá hành vi của cộng đồng nông thôn đối với việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Điều này nhằm đảm bảo rằng văn hóa kỹ thuật số có thể được thiết lập thành công ở Malaysia, đặc biệt là ở các cộng đồng nông thôn.
(2). Yếu tố CNTT
Yếu tố CNTT được xác định là một trong những vấn đề đặt ra trong xây dựng môi trường văn hóa số ở nông thôn ở Malaysia; các thuật ngữ máy tính, băng thông rộng di động hoặc giao diện internet là “ngôn ngữ mới” và “văn hóa mới” đòi hỏi nỗ lực và thời gian để hiểu và thành thạo khi tiếp cận dịch vụ công kỹ thuật số và thấm nhuần văn hóa số của các cơ quan cung cấp dịch vụ công.
(3). Yếu tố cá nhân
Cục Thống kê Malaysia đã tiến hành đánh giá về việc sử dụng và khả năng tiếp cận CNTT dành cho người dùng cá nhân và hộ gia đình. Dựa trên cuộc khảo sát được thực hiện, sự thâm nhập công nghệ đặc biệt
Internet đã gia tăng trong công dân Malaysia và việc sử dụng di động cũng như khả năng tiếp cận đã tăng lên 97,9% kể từ năm 2017. Internet và tỷ lệ sử dụng máy tính cũng tăng lên lần lượt là 81,2% và 70,5%. Việc đánh giá cũng cho thấy rằng mức độ cao số người sử dụng internet ở Malaysia sử dụng internet để tham gia mạng xã hội (96,5%), nhận thấy thông tin (83,1%), tải hình ảnh, phim, video, nhạc, chơi hoặc tải game (81,7%). Tuy nhiên, mặc dù hầu hết người Malaysia sử dụng Internet hàng ngày, một số nhóm xã hội như người già thế hệ hoặc các cá nhân có thu nhập thấp không có khả năng tiếp cận công nghệ phù hợp, đặc biệt là Internet.
(4). Yếu tố hành vi
Các vấn đề do yếu tố nhân khẩu học gây ra đã hình thành nên tính cách và thái độ của người dùng đối với cái mới kinh nghiệm về công nghệ số. Thái độ của một cá nhân đề cập đến hành vi dựa trên những đặc điểm cụ thể trường hợp. Yếu tố nhân khẩu học cũng liên quan đến phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với công nghệ cách sử dụng. Sự cô lập lịch sử trong cộng đồng đã lan tràn trong tâm trí của một ai đó tính cách và thái độ đối với những trải nghiệm kỹ thuật số mới. Một người ở lại quá lâu ở cộng đồng nông thôn có xu hướng cảm thấy miễn cưỡng khi bắt đầu sử dụng công nghệ. Thông tin này rất quan trọng để đánh giá những thách thức trong việc triển khai văn hóa kỹ thuật số trong cộng đồng nông thôn, đặc biệt là ở Malaysia. Con người với mức độ cởi mở thấp thích các mô hình truyền thống và lâu đời hơn và điều này sẽ dẫn đến mức độ chấp nhận thấp trình độ tiếp cận công nghệ mới. Mức độ cởi mở cao để chấp nhận công nghệ và mức độ nhiệt tình cao để thử công nghệ sẽ vượt qua nhận thức điển hình và suy nghĩ hoài nghi về việc chấp nhận công nghệ mới.
Một thành phần khác phản ánh hành vi của con người đối với việc sử dụng công nghệ là yếu tố niềm tin. Niềm tin được coi là yếu tố mạnh mẽ ảnh hưởng đến hành vi trực tuyến của người dùng. Các mức độ tin cậy thấp trong cộng đồng sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng công nghệ. Sự dễ dàng sử dụng và tính hữu ích góp phần rất lớn vào mức độ sử dụng công nghệ số. Cộng đồng nông thôn sẽ chỉ sử dụng thứ gì đó mà họ thấy hữu ích và dễ sử dụng, nếu không, họ sẽ cảm thấy miễn cưỡng Bên cạnh đó, mức độ tự tin và năng lực cũng ảnh hưởng đến hành vi sử dụng công nghệ, phản ánh trực tiếp năng lực tự tin của người dân trong cộng đồng đối với công nghệ. Các vấn đề đã được thảo luận cho đến nay bao gồm về tính hữu ích, dễ sử dụng, tin cậy và hiệu quả được nghiên cứu rộng rãi trong các nghiên cứu.
Nghiên cứu các vấn đề này kỹ lưỡng đã giúp cho Malaysia có các bước đi phù hợp trong tiếp cận chuyển đổi số với người dân ở khu vực nông thôn, đầu tư cơ hội, đầu tư niềm tin và đầu tư tiền bạc trong chuyển đổi số vì nền công vụ hành chính tiên tiến vì thế cũng có hiệu quả hơn
( Government Digital And Economy Strategies Blue Print).

KẾT LUẬN:
Qua phân tích các khía cạnh xây dựng văn hóa số gắn với thực thi công vụ tại Hàn Quốc và Malaysia mà biểu hiện của nó là quá trình phát triển từ tin học hóa, chính phủ điện tử, chính phủ thông minh người viết báo cáo rút ra một số bài học áp dụng tại Việt Nam như sau:
1.Chính phủ và các cấp chính quyền xây dựng văn hóa tin học hóa, kiến tạo chính phủ điện tử vì nền hành chính công vụ chuyên nghiệp hiệu quả, gắn với cải cách thủ tục hành chính để phòng chống quan liêu, tham nhũng, rút ngắn thời gian cung cấp dịch vụ công, phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp. Gắn chính phủ điện tử, hành chính điện tử với mục tiêu thịnh vượng. Coi văn hóa số, triết lý hiệu quả phục vụ là nền tảng; công nghệ thông tin và truyền thông là công cụ; sự thịnh vượng , sự hài lòng của quốc gia, của người dân và doanh nghiệp là mục đích của chuyển đổi số;
2. Cải thiện giao tiếp điện tử giữa chính phủ, chính quyền các cấp với người dân và doanh nghiệp thông qua các nền tảng số, cổng dịch vụ công, cổng giao tiếp điện tử giữa các cơ quan chính phủ, chính quyền các cấp và người dân và doanh nghiệp;
3. Gắn văn hóa số, công nghệ số vào sự tham gia dân chủ của người dân trong việc xây dựng, cải thiện và hoàn thiện các chính sách;
4. Sớm ban hành cơ chế chính sách, phát triển dịch vụ khiếu nại trên nền tảng số đáp ứng các quy định về giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo vì công bằng, hạnh phúc của người dân và doanh nghiệp;
5. Xây dựng nền văn hóa số đối với chính quyền các cấp và toàn thể công chức gắn với đạo đức thực thi công vụ, tinh thần chung tay đóng góp ý tưởng, chia sẻ tài nguyên số, bảo đảm an toàn dữ liệu dùng chung hết lòng phụng sự người dân và doanh nghiệp;
6. Tăng cường hợp tác với Hàn Quốc trong việc xây dựng thiết chế, chuẩn mực văn hóa số, chuẩn mực giao tiếp số trong thực thi công vụ; thực hành hành chính tốt.
7.Dẫn dắt các sáng kiến số hóa tại các bộ/cơ quan thông qua việc sử dụng dữ liệu, phân tích và công nghệ số;
8. Tạo ra văn hóa dựa trên dữ liệu trong khu vực công, thực hiện cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc thông qua việc sử dụng dữ liệu và công nghệ kỹ thuật số;
9. Chuyển đổi việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật số ở các bộ/cơ quan tập trung vào trải nghiệm của khách hàng dựa trên khái niệm Toàn Chính phủ thông qua đổi mới liên quan đến chia sẻ dữ liệu, dữ liệu mở và các công nghệ mới nổi;
10. Nghiên cứu kinh nghiệm Malaysia nhằm xây dựng luật bảo vệ dữ liệu cá nhân của Việt Nam.
11. Hợp tác với Malaysia trong đào tạo, chuyển đổi tư duy số cho những nhân sự ( công chức, viên chức hành chính) mới tham gia vào nền công vụ về đạo đức công vụ, quy tắc hành chính và chuyển đổi số, cung cấp dịch vụ công trên nền tảng số;
12. Căn cứ kinh nghiệm Malaysia Việt Nam nên xác định rõ các rào cản văn hóa số và làm triệt tiêu rào cản văn hóa số ở cả khu vực công và đối tượng thụ hưởng (người dùng cuối) kể cả nông dân, người yếu thế;
13. Tăng cường hợp tác với Malaysia trong việc xây dựng chính sách, mua bán, chuyển giao công nghệ, giao tiếp số trong thực thi công vụ; thực hành hành chính tốt;
14. Giao lưu chia sẻ cách làm hay, kinh nghiệm tốt về các quy định văn hóa số và niềm tin của công chúng đối với dịch vụ công kỹ thuật số của Malaysia.