15 Tháng Ba, 2023 | 16:19
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter

Quan điểm của OECD về chính sách KHCN và ĐMST để chuyển đổi bền vững

Quan điểm của OECD về chính sách KHCN và ĐMST (STI) để chuyển đổi bền vững
Quá trình chuyển đổi tính bền vững sẽ phụ thuộc vào khoa học và công nghệ để đạt được thành công, nhưng cũng sẽ đặt ra những thách thức đối với các hoạt động nghiên cứu và đổi mới – và nói rộng ra là đối với các chính sách KHCNĐM hỗ trợ chúng. Chương này đã nhấn mạnh sự cần thiết phải nén chu kỳ đổi mới, nghĩa là có những thay đổi nhanh chóng trong nhiều hệ thống cùng một lúc. Điều này đòi hỏi phải có định hướng lớn hơn trong các hệ thống KHCNĐM, bao gồm cả trong các chính sách KHCNĐM, có thể giúp trình bày rõ ràng các tầm nhìn chung để huy động nhiều bên tham gia. Tuy nhiên, các hệ thống kỹ thuật xã hội rất phức tạp và thích nghi, và khó chỉ đạo theo cách từ trên xuống. Một quan điểm đa cấp, có hệ thống có thể giúp thiết kế các hỗn hợp chính sách đồng thời tạo ra các cơ hội, xây dựng các công nghệ và thị trường đổi mới, đồng thời phá vỡ các hệ thống kỹ thuật xã hội dựa trên hóa thạch hiện có.

Để vận dụng những hiểu biết sâu sắc này vào các thuật ngữ cụ thể, chương này đã vạch ra một khuôn khổ đơn giản xem xét các cải cách chuyển đổi từ góc độ của mười lĩnh vực phụ chính sách KHCNĐM khác nhau nhưng có liên kết với nhau. Cấp vốn và tài chính là yếu tố đầu tiên trong số này, nơi cần có các mức đầu tư chuyển đổi trong chuỗi đổi mới, bao gồm phổ biến và triển khai công nghệ các-bon thấp, để đáp ứng quy mô và tốc độ của quá trình chuyển đổi về không. Hơn nữa, cán cân hỗ trợ tài trợ cho NC&PT công và tư nên chuyển sang hướng mang tính chỉ đạo và định hướng giải pháp hơn so với hỗn hợp chính sách hiện nay. Một cân nhắc hỗn hợp chính sách liên quan liên quan đến lĩnh vực công nghệ nào sẽ nhắm mục tiêu. Đổi mới công nghệ là một hoạt động không chắc chắn và các công nghệ thường tương tác với nhau theo những cách không thể đoán trước. Lý tưởng nhất, các quốc gia sẽ dàn trải các khoản đầu tư của mình để phát triển khả năng hấp thụ trong nước cho một loạt công nghệ, nhưng điều này rất khó đối với các quốc gia có hệ thống STI nhỏ hơn, những quốc gia sẽ được hưởng lợi từ sự hợp tác với các quốc gia khác để tập hợp các nỗ lực của họ. Hơn nữa, công nghệ có thể tạo ra các ngoại ứng tiêu cực và những đánh đổi tiềm năng cần được đánh giá liên tục (xem Chương 6).

R&D và đổi mới được định hướng và định hướng giải pháp nhiều hơn ngụ ý tăng cường hợp tác và quan hệ đối tác trong các hệ thống STI, bao gồm giữa các ngành khoa học và giữa các lĩnh vực công nghệ, cũng như giữa các tác nhân và hoạt động ở các giai đoạn khác nhau của chuỗi đổi mới. Điều này có thể giúp định hướng và đẩy nhanh tốc độ thay đổi công nghệ, tăng cường liên kết chuỗi đổi mới thông qua đồng thiết kế và đồng sản xuất của khoa học, công nghệ và thể chế, bao gồm cả thị trường. Xã hội rộng lớn hơn cũng cần tích cực tham gia vào các quá trình này. Các RI và TI công cộng có thể là đầu mối hữu ích để tập hợp các nhóm tác nhân của hệ thống đổi mới, cung cấp cơ sở vật chất quy mô lớn cho RD&D. Tuy nhiên, để thực hiện vai trò này một cách hiệu quả, họ cần có được những kỹ năng và khả năng mới, đồng thời nhận được nhiều nguồn tài trợ chiến lược dài hạn hơn.

Mặc dù chính sách KHCNĐM có thể tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi bền vững, nhưng các lĩnh vực chính sách khác có thể sẽ dẫn đầu – đáng chú ý là những lĩnh vực gây phát thải khí nhà kính lớn nhất, chẳng hạn như chính sách năng lượng, giao thông và nông nghiệp. Các tổ chức này có các hoạt động triển khai và RD&D quy mô lớn của riêng chúng, cùng với các hệ thống chính sách hỗ trợ mà chính sách KHCNĐM cần tương tác. Các lĩnh vực chính sách này cũng xác định nhiều điều kiện khuôn khổ hình thành các lộ trình phát triển công nghệ, bao gồm các chính sách cạnh tranh khuyến khích các công ty đổi mới mới thách thức các công ty đương nhiệm, các tiêu chuẩn giúp tạo ra nhu cầu đổi mới ít carbon và định giá carbon khuyến khích các công ty áp dụng công nghệ sạch. Các chính phủ tiếp tục thử nghiệm các cách tiếp cận mới để cải thiện sự phối hợp giữa các chính phủ, bao gồm MOIP (như được mô tả trong Chương 5),

Quy mô và phạm vi toàn cầu của biến đổi khí hậu có nghĩa là hợp tác quốc tế là điều cần thiết để đạt được các mục tiêu bằng không. Hợp tác STI quốc tế có thể có nhiều hình thức khác nhau và lợi ích của nó có thể rất đa dạng. Tuy nhiên, nó phải đối mặt với một số rào cản, đặc biệt là phần lớn tài trợ R&D công được phân bổ trong phạm vi quốc gia và sự liên kết quốc tế giữa các kêu gọi và chương trình quốc gia nổi tiếng là khó đạt được. Nhiều quốc gia có thu nhập thấp và trung bình cũng cần nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của mình để tiếp thu những đổi mới carbon thấp. Việc chứng khoán hóa các chính sách STI ngày càng tăng và căng thẳng địa chính trị gia tăng cũng có thể cản trở sự hợp tác quốc tế trong tương lai (xem Chương 1).

Quy mô và phạm vi hệ thống của quá trình chuyển đổi bền vững và những điều không chắc chắn trong quá trình tương lai của nó, đòi hỏi phải chuyển đổi cơ sở kiến thức và bằng chứng để đưa ra các quyết định chính sách. Phân tích công nghệ định hướng tương lai, bao gồm tầm nhìn chiến lược và hỗ trợ kỹ thuật, có thể nâng cao năng lực dự đoán của chính phủ và cung cấp không gian tập thể nơi các giá trị xã hội và phát triển công nghệ có thể được xem xét cùng nhau. Giám sát và đánh giá sự đóng góp của các can thiệp chính sách sẽ rất cần thiết, nhất là để thay đổi hướng đi nếu cần thiết. Tuy nhiên, có những lỗ hổng kiến thức đáng kể về cách theo dõi và đánh giá quá trình chuyển đổi kỹ thuật xã hội, một thách thức kéo dài đến việc thiếu các chỉ số thống kê thích hợp.

Cuối cùng, nhu cầu về các kỹ năng và khả năng mới cắt giảm tất cả các lĩnh vực phụ của chính sách KHCNĐM. Nhiều lỗ hổng tồn tại trong chính chính phủ, chính phủ được kêu gọi thực hiện vai trò tích cực hơn so với trước đây, hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và người dân, cũng như trong toàn chính phủ để thúc đẩy quá trình chuyển đổi bền vững. Khoảng cách năng lực tương tự tồn tại trong thế giới kinh doanh và nghiên cứu. Một mối quan tâm chính sách khác là hỗ trợ những người trong độ tuổi lao động và cộng đồng đạt được các kỹ năng và cơ hội mới như một phần của quá trình chuyển đổi công bằng.

Các mục tiêu chính sách và thực tiễn theo đuổi trong các lĩnh vực chính sách STI này phải phản ánh các loại chuyển đổi bền vững mong muốn. Quá trình chuyển đổi phải công bằng và có tính hợp pháp dân chủ. Họ nên thể hiện các hình thức hòa nhập khác nhau trong STI, ví dụ, liên quan đến sự khác biệt về địa lý, tình trạng kinh tế xã hội, giới tính và dân tộc. Mặc dù nằm ngoài phạm vi của chương này để trình bày rõ ràng một tập hợp các giá trị chính mà các hoạt động STI nên tuân thủ để hỗ trợ quá trình chuyển đổi bền vững, nhưng những nguyện vọng sau đây có thể cung cấp một số hướng dẫn:

  • Tính bền vững: đảm bảo các chính sách KHCNĐM hỗ trợ tính bền vững ở nhiều khía cạnh (tức là kinh tế, xã hội và môi trường) bằng cách thúc đẩy bình đẳng, hỗ trợ phục hồi và phục hồi hệ sinh thái, đồng thời thúc đẩy thay đổi hệ thống mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai
  • Tính đa dạng: thúc đẩy khả năng phục hồi bằng cách hỗ trợ nhiều lĩnh vực nghiên cứu và công nghệ liên quan đến nhiều bên tham gia giải quyết các thách thức khác nhau, vượt ra ngoài lĩnh vực của các bên STI truyền thống
  • Tính toàn diện: hỗ trợ sự tham gia rộng rãi vào khoa học và đổi mới cũng như chia sẻ các nguồn lực góp phần tạo nên sự minh bạch, tin cậy và hợp tác, đồng thời nhắm mục tiêu phát triển các giải pháp mang lại cơ hội và quyền tiếp cận bình đẳng cho xã hội cũng như thúc đẩy công bằng xã hội
  • Agility: khuyến khích khả năng di chuyển nhanh chóng và kịp thời trong việc giải quyết các thách thức xã hội như net-zero, hỗ trợ tăng tốc thay đổi thông qua thử nghiệm và điều chỉnh các hệ thống nghiên cứu, đổi mới và quản trị
  • Đạo đức: nuôi dưỡng các chuẩn mực và nguyên tắc thúc đẩy tiến bộ theo hướng bền vững, thúc đẩy công lý và sự công bằng, đồng thời tính đến những đánh đổi nảy sinh giữa nhiều khía cạnh hệ thống bằng cách đề xuất các hành động phù hợp với “điều tốt hơn” và “điều gì đúng”.

Cuối cùng, đổi mới khoa học và công nghệ sẽ mang lại hy vọng và huy động sự sáng tạo cũng như sự khéo léo của con người để giải quyết những thách thức cấp bách nhất hiện nay, bao gồm cả cuộc đua đến mức không có mạng. Những nguyện vọng như thế này nên làm nền tảng cho thực tiễn chính sách và đóng vai trò là kim chỉ nam để hướng dẫn các cải cách chính sách tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi bền vững.

Cùng với những hướng này, OECD đã bắt tay vào một dự án mới, “Chính sách KH&CN 2025: Tạo điều kiện chuyển đổi thông qua Khoa học, Công nghệ và Đổi mới”,  để giúp các chính phủ nêu rõ hơn nhu cầu cải cách và chuyển đổi, đồng thời xây dựng lại các chương trình nghị sự chính sách STI của họ cho phù hợp. Một trong những mục tiêu chính của dự án là phát triển tầm nhìn hướng dẫn bao quát và khung chính sách giúp các nhà hoạch định chính sách KHCNĐM suy nghĩ lại, thiết kế lại và thực hiện một danh mục chính sách STI mới nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi bền vững. Dự án sử dụng khung tên miền phụ chính sách đơn giản được nêu trong chương này để xây dựng hướng dẫn chính sách thực tế về những thách thức chính cụ thể.

Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế Liên kết nguồn tin và Dịch tại Cổng thông tin Tổ chức Phát triển kinh tế OECD

https://www.oecd-ilibrary.org/sites/0b55736e-en/1/3/3/index.html?itemId=/content/publication/0b55736e-en&_csp_=b2412cc0600196af8b299a715946ac12&itemIGO=oecd&itemContentType=book