15 Tháng Ba, 2022 | 13:53
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter

PHÁT TRIỂN KHUÔN KHỔ TẠO ĐIỀU KIỆN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ GIỮA ĐẠI HỌC VÀ DOANH NGHIỆP-DANH MỤC CÁC HÀNH ĐỘNG KHẢ THI

Trang thông tin điện tử Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế giới thiệu bài nghiên cứu với nhan đề: Phát triển khuôn khổ tạo điều kiện chuyển giao công nghệ giữa Đại học và Doanh nghiệp từ các nghiên cứu tổng hợp của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO

DANH MỤC CÁC HÀNH ĐỘNG KHẢ THI

Việc phát triển các khuôn khổ ở cấp quốc gia và thể chế nhằm tạo điều kiện và khuyến khích các mối quan hệ hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, là một vấn đề phức tạp mà không thể có công thức xác định trước. Hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, văn hóa và chính trị sẽ ảnh hưởng đến các lựa chọn chính sách có sẵn trong từng bối cảnh và ảnh hưởng đến kết quả và thành công của chúng trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các quốc gia đã tham gia vào nghiên cứu của WIPO về “Chuyển giao Công nghệ, Sở hữu Trí tuệ và Quan hệ Đối tác Hiệu quả giữa các Trường Đại học và Doanh nghiệp”, cũng như các bài học rút ra từ kinh nghiệm của các nước khác, cung cấp cơ sở để phát triển một danh sách kiểm tra chung về các các biện pháp mà các quốc gia có thể muốn xem xét.

Khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các trường đại học sang khu vực tư nhân đã được nhiều quốc gia xác định là một mục tiêu mong muốn, không chỉ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân thông qua việc tiếp cận các kết quả nghiên cứu đổi mới mà còn đảm bảo rằng các kết quả NC&PT của trường đại học được cung cấp cho xã hội thông qua sự thương mại hóa của họ. Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đã trở thành một công cụ được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia để thúc đẩy quan hệ đối tác giữa các trường đại học và các doanh nghiệp vì chúng có thể cung cấp các động lực cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả. Thách thức chính đối với các chính phủ và các tổ chức là hỗ trợ đầy đủ quá trình chuyển giao công nghệ thông qua các cơ chế khác nhau, bao gồm cả việc sử dụng quyền SHTT, đồng thời không làm mất đi và củng cố sứ mệnh giáo dục và nghiên cứu của các trường đại học. Mục tiêu của danh sách kiểm tra sau đây là cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, cả ở cấp quốc gia và cấp thể chế, một loạt các biện pháp chung có thể hữu ích trong khi phát triển các chính sách để tăng cường quan hệ đối tác giữa các trường đại học và ngành thông qua việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ. Trọng tâm là làm thế nào để tạo ra môi trường thích hợp cho việc quản lý các bằng sáng chế của các trường đại học và chuyển giao hiệu quả của chúng cho doanh nghiệp.

Danh sách tập hợp các biện pháp minh họa không đầy đủ giải quyết ba lĩnh vực chính của việc hoạch định chính sách, đó là:

  1. Chính sách quốc gia về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ giữa trường đại học – doanh nghiệp
  1. Chính sách của trường đại học về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ

III. Thiết lập thể chế và các khía cạnh thực tế để chuyển giao công nghệ từ các trường đại học sang các doanh nghiệp

  1. CHÍNH SÁCH QUỐC GIA VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ GIỮA ĐẠI HỌC VÀ DOANH NGHIỆP

Hệ thống sở hữu trí tuệ hiệu quả. Điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ khuôn khổ chính sách quốc gia nào nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ từ các trường đại học sang các doanh nghiệp thông qua việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ là sự tồn tại của một hệ thống sở hữu trí tuệ hiệu quả, bao gồm luật pháp hiện đại trong lĩnh vực bằng sáng chế, nhãn hiệu, quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp và bí mật kinh doanh; một văn phòng sở hữu trí tuệ phụ trách việc kiểm tra và đăng ký / cấp quyền SHTT; và sự sẵn có của các chuyên gia SHTT có trình độ (ví dụ như luật sư, đại lý, chuyên gia nội bộ, v.v.) sẵn sàng hỗ trợ các trường đại học trong suốt vòng đời của bằng sáng chế, cụ thể hơn, quy trình nộp đơn, đàm phán các giấy phép đối với công nghệ đã được cấp bằng sáng chế và có thể là việc thực thi các quyền đối với bằng sáng chế trong trường hợp có tranh chấp.

Tư cách pháp nhân của trường đại học. Để các trường đại học có thể sở hữu và quản lý quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp để thương mại hóa, thì điều cần thiết là họ phải có tư cách pháp nhân tối thiểu để làm điều đó. Kinh nghiệm từ một số quốc gia đã chỉ ra rằng các thủ tục quan liêu kéo dài đòi hỏi các trường đại học quốc doanh phải tham khảo ý kiến của các ủy ban chính phủ hoặc các cơ quan tương tự trước mỗi đơn xin cấp bằng sáng chế và/hoặc đàm phán hợp đồng, do thiếu quyền tự chủ về mặt pháp lý để tiến hành các hoạt động đó một cách độc lập, có thể trở thành một sự không thúc đẩy rõ ràng và là trở ngại lớn cho việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.

Chính sách rõ ràng, minh bạch về quyền sở hữu SHTT. Các quy tắc rõ ràng và minh bạch về quyền sở hữu bất kỳ quyền sở hữu trí tuệ nào được phát triển trong các trường đại học công lập hoặc được tài trợ bằng nguồn lực công là rất quan trọng. Các quốc gia khác nhau có các cách lập pháp khác nhau về vấn đề này, từ các quy định trong luật sáng chế và luật việc làm đến luật cụ thể liên quan đến SHTT và chuyển giao công nghệ của trường đại học. Ngoài ra, các cơ quan tài trợ nghiên cứu của chính phủ cũng có thể có các quy định cụ thể cho bất kỳ nghiên cứu nào được thực hiện với nguồn tài trợ đó. Bất kể luật pháp mà vấn đề được đưa vào là gì, có một lập luận chặt chẽ ủng hộ việc có một chính sách toàn quốc xác lập rõ ràng các vấn đề về quyền sở hữu đối với quyền SHTT do các nhà nghiên cứu đại học phát triển. Điều này sẽ không chỉ cung cấp các quy tắc rõ ràng và có thể dự đoán được của dự án cho tất cả các bên liên quan mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu chung giữa các tổ chức khác nhau.

Các quốc gia khác nhau đã áp dụng các cách tiếp cận khác nhau về việc liệu trường đại học, nhà nghiên cứu, Nhà nước hoặc cơ quan tài trợ sẽ được coi là chủ sở hữu của các quyền SHTT được phát triển trong các trường đại học bằng nguồn vốn công. Trong những năm gần đây, trường đại học có xu hướng sở hữu rõ ràng (mặc dù thường có những ngoại lệ, ví dụ, đối với các phát minh do các nhà nghiên cứu thực hiện trong thời gian riêng của họ bằng cách sử dụng thiết bị của chính họ, hoặc đối với các phát minh được phát triển trong khuôn khổ hợp tác hoặc tài trợ thỏa thuận nghiên cứu). Một số lý do chính để giao quyền sở hữu cho các trường đại học bao gồm:

  • Tạo thêm thu nhập cho trường đại học;
  • Tạo động lực cần thiết để tổ chức hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ;
  • Chi phí cấp bằng sáng chế quá cao đối với cá nhân nhà nghiên cứu tài trợ (đặc biệt nếu cấp bằng sáng chế ở nước ngoài);
  • Nhìn chung, có nhiều nhà nghiên cứu tham gia vào mọi dự án nghiên cứu, điều này sẽ dẫn đến sự phân tán quyền sở hữu và các vấn đề có thể xảy ra đối với việc chuyển giao và thương mại hóa nếu công nghệ thuộc sở hữu của các nhà nghiên cứu; và
  • Trường đại học sở hữu và tổ chức quản lý quyền SHTT tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyên nghiệp hóa các hoạt động chuyển giao công nghệ và cho phép các nhà nghiên cứu tập trung vào các kỹ năng nghiên cứu cốt lõi của họ.

Các cơ quan tài trợ nghiên cứu. Ở một số quốc gia, các cơ quan tài trợ nghiên cứu tích cực xúc tiến việc cấp bằng sáng chế cho các kết quả nghiên cứu và trong một số trường hợp, bao gồm cả tài trợ cho việc bảo vệ kết quả nghiên cứu như một phần của gói tài trợ. Ngoài ra, các cơ quan tài trợ nghiên cứu đôi khi cũng yêu cầu các nhà nghiên cứu tiến hành tìm kiếm kỹ thuật trước bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu bằng sáng chế trước khi tài trợ cho một dự án. Điều này cung cấp mức độ đảm bảo cao hơn rằng kinh phí không được chuyển cho nghiên cứu đã được thực hiện ở nơi khác hoặc được thực hiện ở một khu vực có thể “đông đúc” và có thể không mang lại lợi ích kinh tế mong muốn. Đối với các chính sách về quyền sở hữu SHTT của các cơ quan tài trợ, những chính sách này phải phù hợp với chính sách quốc gia, vì sự mâu thuẫn giữa các quy tắc của các cơ quan tài trợ khác nhau có thể dẫn đến xung đột về quyền sở hữu khi nghiên cứu được tài trợ từ nhiều nguồn. Việc thiếu rõ ràng về quyền sở hữu thường được doanh nghiệp coi là một nguyên nhân cản trở mạnh mẽ đối với việc tham gia vào thương mại hóa.

Phát triển nguồn nhân lực có tay nghề cao. Quản lý các hoạt động chuyển giao công nghệ từ các trường đại học sang khu vực tư nhân đòi hỏi nguồn nhân lực có tay nghề cao và các nhóm liên ngành có chuyên môn về pháp lý, kinh doanh, khoa học và cấp phép. Thiếu nguồn nhân lực có trình độ cho các nhiệm vụ như vậy là một trong những điểm nghẽn lớn nhất được xác định ở một số quốc gia, bao gồm cả các quốc gia đã tham gia nghiên cứu này. Các sáng kiến đào tạo nguồn nhân lực cần thiết không nên được coi là trách nhiệm riêng của các tổ chức cá nhân vì các nỗ lực có thể được thực hiện ở cấp quốc gia để tạo ra các kỹ năng cần thiết cho các hoạt động đó.

– Quỹ sáng chế và/hoặc chiết khấu. Một số quốc gia trên toàn thế giới đã đưa ra các sáng kiến thành lập quỹ cạnh tranh mà các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu công lập khác (TNC) có thể đăng ký để nhận được hỗ trợ tài chính cho việc cấp bằng sáng chế trong nước và quốc tế trong một số trường hợp. Các quỹ quốc gia dành cho việc cấp bằng sáng chế cho trường đại học có thể được coi là một cơ chế hữu ích để thúc đẩy việc sử dụng hệ thống bằng sáng chế, đặc biệt là ở những nơi nó đang được các trường đại học sử dụng kém do hạn chế về tài chính. Các quỹ như vậy, tại nơi chúng được thành lập, nên tính đến toàn bộ chi phí bảo hộ bằng sáng chế (tức là phí nộp đơn chính thức, chi phí thuê chuyên gia để tiến hành tìm kiếm kỹ thuật trước và/hoặc soạn thảo đơn đăng ký sáng chế, phí duy trì chính thức và dịch thuật chi phí nếu tài trợ sẽ bao gồm hỗ trợ cho việc cấp bằng sáng chế ở nước ngoài). Một giải pháp thay thế đã được thực hiện ở nhiều quốc gia là giảm giá hoặc miễn phí nộp đơn chính thức và phí duy trì cho các trường đại học và TNC.

– Các yêu cầu để thương mại hóa sáng chế. Theo luật của một số quốc gia và trong quy định của một số cơ quan tài trợ nghiên cứu, các trường đại học được yêu cầu thương mại hóa hoặc khai thác các phát minh. Trong một số trường hợp, các yêu cầu hoặc nghĩa vụ như vậy có thể đóng vai trò là động cơ khuyến khích các tổ chức nỗ lực đáng kể để thương mại hóa kết quả NC&PT của mình và dành nguồn nhân lực và tài chính cho các nhiệm vụ đó. Trong một số trường hợp, các yêu cầu khai thác có thể đi đôi với các yêu cầu báo cáo và/hoặc tiết lộ bất kỳ phát minh hoặc quyền SHTT nào cho các cơ quan tài trợ nghiên cứu. Bất chấp những khó khăn trong việc giám sát các điều khoản như vậy, chúng đã tỏ ra hữu ích ở một số quốc gia để khuyến khích chuyển giao công nghệ.

Bảo vệ lợi ích công cộng. Mục tiêu cuối cùng của các chính sách và luật pháp trong lĩnh vực này nói chung là tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ cho ngành công nghiệp nhằm đảm bảo thương mại hóa công nghệ vì lợi ích công cộng. Với suy nghĩ này, và cho rằng nghiên cứu thường được tài trợ bởi các nguồn công cộng, các chính sách thường có các điều khoản để đảm bảo rằng lợi ích công được bảo vệ. Ví dụ, ở một số quốc gia, các trường đại học có một thời gian cụ thể để họ có thể thực hiện quyền sở hữu của mình, nếu không thì chức danh sẽ được chuyển giao cho chính phủ hoặc cơ quan tài trợ. Hơn nữa, ở một số quốc gia, chính phủ bảo lưu cho mình giấy phép miễn phí bản quyền để hành nghề, hoặc thực hành nhân danh mình, bất kỳ phát minh nào được tài trợ công trong những trường hợp ngoại lệ (còn được gọi là “quyền tham gia”).

Hướng dẫn và Quy tắc Thực hành. Một số chính phủ đã ban hành các hướng dẫn, quy tắc thực hành hoặc một tập hợp các nguyên tắc để bổ sung luật hoặc cung cấp hỗ trợ cho các tổ chức về khai thác quyền SHTT. Mục đích của các hướng dẫn này nói chung là để đảm bảo rằng các trường đại học có quyền tiếp cận với các thực tiễn tốt nhất để xác định, bảo vệ và quản lý các quyền SHTT.

Các chương trình hỗ trợ thành lập văn phòng chuyển giao công nghệ. Ở một số quốc gia, các chương trình đã được giới thiệu để tài trợ cho việc thành lập các văn phòng chuyển giao công nghệ. Văn phòng chuyển giao công nghệ được định nghĩa rộng rãi là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý việc chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp và thường chịu trách nhiệm quản lý tài sản sở hữu trí tuệ của trường đại học. Lý tưởng nhất là các văn phòng chuyển giao công nghệ sẽ tự cung tự cấp và cuối cùng tạo ra thu nhập bổ sung cho trường đại học. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng không phải tất cả các văn phòng chuyển giao công nghệ đều có thể tự tài trợ, và ngay cả khi làm như vậy, các quỹ khởi nghiệp thường được yêu cầu trong vài năm. Ở một số quốc gia, các chính phủ hỗ trợ việc thành lập các văn phòng chuyển giao công nghệ bằng các biện pháp hỗ trợ tài chính và / hoặc kỹ thuật. Đặc biệt, các văn phòng sáng chế quốc gia thường được kêu gọi hỗ trợ kỹ thuật cho các văn phòng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu.

Tăng cường giáo dục về SHTT. Nhu cầu tăng cường giáo dục SHTT trong các trường đại học cũng rất quan trọng, không chỉ đối với sinh viên luật và kinh doanh mà còn giữa các nhà khoa học và kỹ sư để các nhà nghiên cứu làm quen với cách thức hoạt động của hệ thống sở hữu trí tuệ. Truyền bá việc sử dụng cơ sở dữ liệu bằng sáng chế của sinh viên khoa học như một nguồn thông tin công nghệ là một biện pháp quan trọng để nâng cao kiến thức của họ về những phát triển công nghệ mới nhất và đưa các nhà khoa học đến gần hơn với hệ thống sở hữu trí tuệ.

Thời gian ân hạn. Việc công bố kết quả nghiên cứu trước khi nộp đơn đăng ký sáng chế có thể ảnh hưởng đến khả năng cấp bằng sáng chế của họ, vì đơn đăng ký sáng chế tiếp theo sẽ không còn đáp ứng yêu cầu về tính mới. Do đó, một số quốc gia có quy định về thời gian gia hạn, (tức là khoảng thời gian mà một nhà nghiên cứu có thể tiết lộ một sáng chế, chẳng hạn như thông qua việc xuất bản, mà không ảnh hưởng đến khả năng cấp bằng sáng chế của sáng chế). Đây được cho là một cơ chế hữu ích để tạo điều kiện cấp bằng sáng chế cho các nhà nghiên cứu đang chịu áp lực công bố kết quả của họ. Ở các quốc gia có thời gian gia hạn, các nhà nghiên cứu có thể công bố kết quả nghiên cứu của họ và sau đó nộp đơn đăng ký sáng chế của họ trong một khung thời gian cụ thể (thường là 6 tháng hoặc một năm). Tuy nhiên, những người phản đối thời gian gia hạn lại cho rằng việc áp dụng thời gian gia hạn làm tăng sự không chắc chắn về mặt pháp lý. Luật pháp của các quốc gia có sự khác biệt đáng kể về vấn đề này và thời gian gia hạn tồn tại ở các hình thức khác nhau ở một số quốc gia (ví dụ: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc) nhưng không tồn tại ở những quốc gia khác (ví dụ: các quốc gia là thành viên của Công ước Sáng chế Châu Âu). Bằng sáng chế có thể bị từ chối đối với các nhà phát minh đã dựa vào các điều khoản về thời gian gia hạn khi họ áp dụng ở các quốc gia không có các điều khoản đó.

Khuôn khổ để thành lập các công ty con. Việc tạo ra các sản phẩm phụ được coi là một con đường quan trọng để thương mại hóa công nghệ mới, đặc biệt khi bản chất của công nghệ này khiến không người chơi hiện tại nào trong một thị trường cụ thể sẵn sàng chấp nhận rủi ro đưa một sáng chế nhất định ra thị trường. Các chính sách quốc gia có thể phải giải quyết các vấn đề có thể phát sinh liên quan đến việc thành lập các công ty con của trường đại học. Ví dụ, có thể cần phải xác định xem các trường đại học thuộc sở hữu Nhà nước có được quyền sở hữu vốn chủ sở hữu đối với các công ty con và liệu, trong những trường hợp nào, các nhà nghiên cứu trường đại học do Nhà nước tài trợ có thể tham gia vào các doanh nghiệp tư nhân hay không (xem thêm về điều này bên dưới tại Phần II ).

Nguồn vốn hỗ trợ cho các sản phẩm phụ và khởi nghiệp. Với những rủi ro tài chính liên quan đến việc thành lập các công ty mới thành lập và các trường đại học, thường rất khó để tìm được nguồn vốn cần thiết trên thị trường tài chính. Ở một số quốc gia, các chính phủ đã thiết lập các cơ chế tài trợ cạnh tranh mà các công ty mới thành lập có thể áp dụng để có được vốn đầu tư mạo hiểm. Sự tồn tại của các cơ chế tài trợ như vậy, đặc biệt để thành lập các công ty dựa trên công nghệ mới dựa trên công nghệ được cấp bằng sáng chế của trường đại học, có thể tác động đến khả năng các doanh nghiệp đó phát triển và tồn tại sau giai đoạn khởi nghiệp.

Nguồn: Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN liên kết và chuyển ngữ từ Cổng thông tin của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)- DEVELOPING FRAMEWORKS TO FACILITATE UNIVERSITY-INDUSTRY TECHNOLOGY TRANSFER / https://www.wipo.int/policy/pdf/en/ui_checklist.pdf.