14 Tháng Một, 2022 | 13:55
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter

Các chính sách chính về đổi mới sáng tạo Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc- Phần 1

Các chính sách  chính về đổi mới sáng tạo Doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trang tin Thông tin điện tử Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế giới thiệu đến quý đọc giả bài viết của Tác giả  By Joo-Yong Kim1:   Giám đốc Trung tâm đổi mới sáng tạo Doanh nghiệp vừa và nhỏ của APEC tại TIPA, Hàn Quốc

Các chính sách  chính về đổi mới sáng tạo Doanh nghiệp vừa và nhỏ

Các chính sách SME truyền thống thường đề cập đến các chính sách được thực hiện bởi một bộ hoặc cơ quan chính phủ có nhiệm vụ thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN).

Cần coi các DNVVN hiện tại làm ngoại sinh và phát triển các công cụ để thúc đẩy khả năng tồn tại của họ. Đạo luật Doanh nghiệp Nhỏ năm 1953 tại Hoa Kỳ đã quy định rõ ràng vai trò của Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp Nhỏ là “tài trợ, tham vấn, hỗ trợ và bảo vệ  lợi ích của các mối quan tâm của doanh nghiệp nhỏ.” Chính sách DNVVN khuôn khổ ở Hàn Quốc bắt đầu với những nỗ lực của chính phủ nhằm bảo vệ các DNVVN khỏi sự thống trị của các doanh nghiệp lớn. Hàn Quốc đã tạo ra các chính sách SME truyền thống vào đầu những năm 1960 và bảo vệ các SME khỏi các doanh nghiệp lớn trong thời kỳ công nghiệp vào những năm 1970 và 1980. Bước ngoặt là sự ra đời của WTO vào năm 1995. Kể từ đó, Hàn Quốc đã chuyển trọng tâm chính sách của mình sang tự chủ, mở cửa và cạnh tranh.

Người ta thừa nhận rõ rằng năng suất tăng lên khi đổi mới công nghệ hơn là đầu tư vào lao động và vốn. Nó được chứng kiến với sự ra đời của Nền Kinh tế Mới, nền kinh tế chịu ảnh hưởng của sự đổi mới Công nghệ Thông tin và Truyền thông. Đổi mới đã trở thành một động lực tăng trưởng kinh tế mới. Môi trường kinh doanh đang được chuyển dịch sang cơ cấu kinh tế đổi mới sáng tạo. Do đó, một chiến lược mới cần được thiết lập và thực hiện để đảm bảo rằng khu vực DNVVN tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Trong bối cảnh đó, ngày càng có nhu cầu chuyển trọng tâm của các chính sách DNVVN từ chính sách bảo hộ sang chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của DNVVN bằng cách thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao năng lực đổi mới công nghệ và quản lý. Chính phủ Hàn Quốc đã phản ánh xu hướng trong chính sách DNVVN của mình từ năm 2003.

Trong nỗ lực đáp ứng nhu cầu, Chính phủ Hàn Quốc đã thay đổi chính sách DNVVN theo hướng tăng cường lợi thế cạnh tranh của các DNVVN, nỗ lực thúc đẩy các DNVVN làm nền tảng tăng trưởng kinh tế. Do đó, chính phủ đã có thể thiết lập một chiến lược có lợi hơn cho cơ cấu kinh tế theo hướng đổi mới.

Lộ trình phát triển DNVVN của chính phủ được thiết kế để tạo ra một môi trường nơi tất cả các doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ có thể phát triển thành các DNVVN sáng tạo và chính phủ tìm cách chuyển đổi mô hình chính sách từ chính sách bảo hộ sang chính sách thúc đẩy cạnh tranh tự do và hợp tác. Chính phủ tiếp tục điều chỉnh các chính sách về DNVVN để đáp ứng các mục tiêu khác nhau phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của các DNVVN.

Tập trung vào hỗ trợ DNVVN gián tiếp như thiết lập cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ và thông tin thay vì cung cấp hỗ trợ DNVVN trực tiếp, chính phủ đặt mục tiêu tạo nền tảng cho một môi trường thân thiện với đổi mới, nơi các DNVVN có thể phát triển thành các DNVVN sáng tạo.

Chính sách đổi mới DNVVN

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới được định nghĩa là các doanh nghiệp vừa và nhỏ được trang bị R&D (cho phép đổi mới sản phẩm và quy trình mới) và khả năng thương mại hóa.

Chúng được ước tính đại diện cho khoảng 30.000, chiếm khoảng 10%  Tổng số 330.000 doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ tại Hàn Quốc. Các chính phủ đã hỗ trợ một cách có hệ thống các DNVVN đổi mới bằng cách thúc đẩy khởi nghiệp dựa trên công nghệ, đổi mới công nghệ và tiếp thị, v.v.

  1. CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ

Chính phủ thực hiện các chính sách khác nhau, tập trung vào những điều sau

lĩnh vực: thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ sáng tạo sẽ dẫn đầu đổi mới công nghệ của Doanh nghiệp vừa và nhỏ; củng cố mạng lưới các ngành, học viện và viện nghiên cứu; thúc đẩy thương mại hóa công nghệ phát triển; và khuyến khích các tổ chức công sử dụng ngân sách công nghệ của họ cho các DNVVN.

Chương trình đổi mới công nghệ SME

Hàn Quốc đã thực hiện Chương trình Đổi mới Công nghệ SME để thúc đẩy đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã kế thừa R & D, để tích lũy Năng lực R & D và nâng cao khả năng cạnh tranh về công nghệ bằng cách hỗ trợ phát triển các sản phẩm và quy trình mới. Chính phủ hỗ trợ chương trình trong một dự án một năm cho nhiệm vụ chung hoặc trong ba năm cho dự án chiến lược các nhiệm vụ. Chính phủ trung ương hỗ trợ 50% và chính quyền địa phương 25% các chi phí. Khi chương trình đổi mới công nghệ DNVVN kết thúc với thành công, chính phủ nhận lại 30% đóng góp là công nghệ phí trả góp trong năm năm. Chương trình được bắt đầu vào năm 1997

Chương trình liên kết Viện nghiên cứu-Đại học-Công nghiệp

Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương thiếu đổi mới năng lực để nâng cao đổi mới công nghệ của họ và giải quyết kỹ thuật bằng cách khuyến khích họ sử dụng thiết bị và nhân lực xuất sắc của các trường đại học hoặc viện nghiên cứu. Đối với chương trình của Liên hiệp Viện Nghiên cứu – Đại học, Công nghiệp, chính phủ trung ương hỗ trợ 50% và địa phương chính phủ 25% chi phí phát triển công nghệ trong tối đa một năm. Chương trình liên kết công nghiệp-đại học-nghiên cứu bắt đầu vào năm 1993 chương trình dẫn đến 5.026 đơn xin cấp bằng sáng chế, 13.600 trường hợp tạo mẫu, và 10.446 trường hợp cải tiến quy trình trong giai đoạn 1993-2004.

Chương trình đảm bảo mua công nghệ mới

Để thương mại hóa các công nghệ mới được phát triển bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ quan  chính phủ, tổ chức công cộng bao gồm Tổng công ty Điện lực Hàn Quốc, Tổng công ty Khí Hàn Quốc và Tổng công ty Đường sắt Hàn Quốc và tư nhân lớn các doanh nghiệp đã ủy quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển công nghệ mới với đảm bảo rằng họ sẽ mua các sản phẩm công nghệ mới. Các chính phủ hỗ trợ tài chính cho sự phát triển công nghệ, trong khi các tổ chức công mua các sản phẩm trong một thời gian nhất định. Các chương trình bắt đầu vào năm 2003 bằng cách hỗ trợ 49 dự án cho một cơ quan chính phủ. Tính đến năm 2006, chính phủ đã hỗ trợ 120 dự án cho 45 người có nhu cầu bao gồm các cơ quan chính phủ, các tổ chức công cộng và các doanh nghiệp tư nhân lớn. Chương trình Nghiên cứu Đổi mới Doanh nghiệp Nhỏ của Hàn Quốc (KOSBIR) Trong nỗ lực cung cấp hỗ trợ toàn chính phủ cho đổi mới công nghệ SME hoạt động, chính phủ đã tiến hành Đổi mới Doanh nghiệp Nhỏ của Hàn Quốc

Chương trình nghiên cứu (KOSBIR) từ năm 1998. Trong KOSBIR, 16 cơ quan bao gồm 10 cơ quan chính phủ với ngân sách R&D khổng lồ và 6 các tổ chức đầu tư của chính phủ được khuyến nghị cung cấp nhiều hơn 5% ngân sách R&D của họ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kể từ năm 2000, khi 13,2% của ngân sách R&D quốc gia được hỗ trợ cho phát triển công nghệ SME, tỷ trọng liên tục tăng lên 20,6% vào năm 2005, sự gia tăng được hiểu là 16 cơ quan tham gia đã phân bổ nhiều R&D hơn ngân sách cho phát triển công nghệ DNVVN và cải thiện thể chế của họ.

Quy trình hỗ trợ các DNVVN theo chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo Doanh nghiệp vừa và nhỏ.

  1. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH

Chính phủ hỗ trợ tài chính trực tiếp và gián tiếp cho các DNVVN để đảm bảo rằng các DNVVN đổi mới không thất bại do khó khăn về tài chính. Đối với nguồn tài chính trực tiếp từ thị trường, chính phủ thúc đẩy thị trường đầu tư mạo hiểm. Đối với tài trợ gián tiếp, chính phủ cung cấp dịch vụ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng do không có tài sản thế chấp.

Quỹ đầu tư mạo hiểm

Để đảm bảo sự tiếp tục của các khoản đầu tư mạo hiểm từ thị trường, chính phủ đã tạo ra các quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 500 triệu đô la vào tháng 6 năm 2006 bằng cách thành lập 102 công ty đầu tư mạo hiểm và 366 công ty hợp tác đầu tư mạo hiểm. Để xây dựng nền tảng cho sự tăng trưởng ổn định của vốn đầu tư mạo hiểm, chính phủ cũng đã thành lập Quỹ tài trợ nhằm thúc đẩy việc thành lập các quỹ đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp mạo hiểm.

Tài trợ vốn bằng nợ

Tài trợ vốn chủ sở hữu bằng nợ được cung cấp cho các DNVVN nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tài chính của họ bằng cách giải quyết các thất bại của thị trường và thúc đẩy các DNVVN đổi mới. Vào tháng 7 năm 2004, chính phủ đã thiết lập một biện pháp toàn diện để tăng cường khả năng cạnh tranh của các DNVVN nhằm mở rộng việc cung cấp quỹ khởi nghiệp, quỹ cơ sở vật chất dài hạn và quỹ cho các công nghệ phát triển ra thị trường. Trong năm 2005, các biện pháp tài trợ vốn chủ sở hữu tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ sáng tạo, nhằm tìm kiếm sự thuận tiện của khách hàng thông qua việc đơn giản hóa các thủ tục, tạo ra nhiều kết quả hơn và củng cố công việc xem xé doanh nghiệp thua lỗ.

Quỹ vốn chủ sở hữu lên tới 3 nghìn tỷ won vào năm 2004, 3,16 nghìn tỷ won vào năm 2005 và 2,75 nghìn tỷ won vào năm 2006. Một dịch vụ duy nhất của việc tài trợ bằng vốn chủ sở hữu nợ, không cần đến các tổ chức bảo lãnh khoản vay, đã thực hiện quy trình cho vay nhanh hơn trước.

Chương trình Bảo lãnh Tín dụng

Bảo lãnh tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn về tài chính bằng cách giảm bớt tình trạng thiếu vốn và hỗ trợ ổn định kinh doanh

Mục đích của dịch vụ bảo lãnh tín dụng như sau: thứ nhất, dịch vụ đánh giá trình độ công nghệ, khả năng thương mại hóa và khả năng tiếp thị của nó; thứ hai, cung cấp tài chính, sự hỗ trợ; và thứ ba, nó dự định thúc đẩy và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ xuất sắc và thúc đẩy tài chính kỹ thuật.

Các quỹ bảo lãnh tín dụng được quản lý bởi Quỹ Bảo lãnh Tín dụng SME Hàn Quốc và Quỹ Bảo lãnh Công nghệ Hàn Quốc được thành lập lần lượt vào năm 1976 và 1989. Trong khi đó, Quỹ Bảo lãnh Tín dụng Khu vực được thành lập năm 1999 và đang hoạt động tại 16 tỉnh thành trên toàn quốc.

Chứng nhận Doanh nghiệp vừa và nhỏ Sáng tạo

Có ba loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ sáng tạo ở Hàn Quốc. Đầu tiên, đó là kinh doanh mạo hiểm và đầy thử thách. Hoạt động kinh doanh mạo hiểm dự kiến sẽ mang lại lợi nhuận cao và rủi ro cao khi các khoản đầu tư mạo hiểm tăng lên. Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ thứ hai là Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo (Inno-biz), mang lại tiềm năng tăng trưởng cao và có khả năng đảm bảo khả năng cạnh tranh về công nghệ thông qua đổi mới công nghệ. Loại hình DNVVN thứ ba là DNVVN đổi mới quản lý, hiện đang thực hiện các hoạt động liên quan đến đổi mới quản lý hoặc đã đạt được thành tựu đổi mới sau khi thực hiện các hoạt động đổi mới quản lý trong vòng ba năm qua. Sau khi một doanh nghiệp được chứng nhận là doanh nghiệp vừa và nhỏ sáng tạo (doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp đổi mới sáng tạo (inno-biz), chính phủ cung cấp cho họ những lợi ích đa dạng như giảm tiêu chuẩn vốn phát hành, ưu tiên cao hơn và thêm điểm cho bằng sáng chế, và lợi ích đặc biệt khi niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, nhân viên trong một doanh nghiệp liên doanh được chứng nhận có thể có lợi ích về thuế khi họ nhận được quyền chọn mua cổ phiếu. Đặc biệt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ (các công ty đổi mới sáng tạo) có thể tham gia vào các chương trình hỗ trợ phát triển công nghệ khác nhau trên cơ sở ưu đãi

  1. CHÍNH SÁCH NHÂN SỰ DOANH NGHIỆP

Chính phủ đã hỗ trợ một chương trình thành lập và vận hành

Vườn ươm Doanh nghiệp (BI) tại các trường đại học và viện nghiên cứu. Chương trình người thụ hưởng sẽ là các doanh nhân của các công ty khởi nghiệp dựa trên công nghệ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiềm năng khởi nghiệp. Chương trình đã cung cấp cho các DNVVN không gian kinh doanh trong 2 đến 3 năm trong BIs, dịch vụ tư vấn quản lý, công nghệ hoặc tiếp thị và cầu nối tài chính.

Năm 1998, chính phủ bắt đầu tài trợ một số chi phí cho việc thành lập các trung tâm BI tại các cơ sở nghiên cứu đại học, quốc gia và công cộng. Các khoản trợ cấp của chính phủ được cung cấp cho chi phí hoạt động của BI và việc mở rộng các cơ sở của chúng.

Nếu một cơ sở ươm tạo đạt kết quả kém, cơ sở ươm tạo đó sẽ bị loại khỏi danh sách hưởng lợi cho mùa tài chính tiếp theo. Năm 1999, chính phủ đã tăng số lượng BI để tạo thêm việc làm và giải quyết tình trạng thất nghiệp. Tính đến tháng 6 năm 2006, có 268 trung tâm BI, trong đó có 4.287 công ty và 4.255 công ty đã tốt nghiệp từ các trung tâm BI.

Chương trình Dịch vụ Tư vấn dựa trên Phiếu mua hàng có một điểm đặc biệt là không chỉ chuyển đổi chương trình tư vấn thông thường mà còn góp phần thúc đẩy ngành tư vấn phát triển. Hơn nữa, chính phủ đã thực hiện bộ quy tắc đạo đức về việc cấm các mối nguy hại về đạo đức, các chương trình đào tạo để nâng cao năng lực của các chuyên gia tư vấn và đánh giá tư vấn. Chính phủ tiến hành một cuộc khảo sát về các công ty tư vấn và một cuộc khảo sát về sự hài lòng của các DNVVN với tư cách là người tiêu dùng chính sách.

Hệ thống thông tin chính sách tùy chỉnh

Hàn Quốc có hệ thống thông tin chính sách tùy chỉnh hoặc hệ thống SPi-1357 kết hợp trang cổng thông tin trực tuyến và trung tâm cuộc gọi để khắc phục sự cố. Cổng thông tin site (www.spi.go.kr) là cổng cung cấp thông tin chính sách theo thời gian thực trong 9 lĩnh vực như tài chính, nhân lực và công nghệ bằng cách tích hợp 7.200 loại thông tin do 232 cơ quan hỗ trợ DNVVN nắm giữ. Một hệ thống tư vấn toàn diện ngoại tuyến cũng được cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua số điện thoại miễn phí 1357. Các chuyên gia trong từng lĩnh vực giải đáp thắc mắc và tư vấn các điểm nghẽn trong kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thông qua việc tích hợp với mạng lưới mua hàng công khai, hệ thống SPi không chỉ là hướng dẫn cho những người mới bắt đầu và những người sáng lập tiềm năng mà còn giảm bớt sự cạnh tranh quá mức không cần thiết trong từng lĩnh vực và khu vực.

  1. CHÍNH SÁCH TIẾP THỊ

Mua sắm của Chính phủ

Chính phủ yêu cầu các tổ chức công mua các sản phẩm công nghệ của DNVVN đã được chính phủ phê duyệt để hoạt động, do đó thúc đẩy sự phát triển công nghệ trong các DNVVN và công chúng mua các sản phẩm của DNVVN. Vào tháng 7 năm 2005, chính phủ đã giới thiệu một hệ thống công nhận hiệu suất và bảo hiểm các sản phẩm công nghệ do các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Nó cũng thiết lập một cơ sở để mua nhân sự trong các tổ chức công được miễn trách nhiệm.

Chính phủ đã thông qua Hệ thống Mục tiêu Mua Sản phẩm Công nghệ cho các tổ chức công. Tỷ lệ sản phẩm công nghệ được mua của các DNVVN là 5% vào năm 2006, nhưng tăng lên 10% vào năm 2010. Để đảm bảo tính hiệu quả của hệ thống, mức độ hoàn thành được phản ánh trong việc đánh giá các tổ chức công. Số tiền mua đã tăng 400 tỷ won vào năm 2003 lên 1,1 nghìn tỷ won vào năm 2006

Xúc tiến xuất khẩu

Trong chương trình hỗ trợ trung tâm dịch vụ tư nhân ở nước ngoài, 153 công ty tư vấn tư nhân ở các nền kinh tế lớn đã được chỉ định làm trung tâm dịch vụ ở nước ngoài để giúp các DNVVN tiến ra thị trường nước ngoài. Họ chịu trách nhiệm thực hiện các cuộc khảo sát thị trường về xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, xác định đối tác và tư vấn cho các dự án như thành lập pháp nhân địa phương. Trong giai đoạn 2001-2005, số công ty nhận được hỗ trợ là 752 công ty, đạt doanh số xuất khẩu trị giá 12,78 triệu đô la. Các phái đoàn thương mại được cử đến các thị trường ngách ở nước ngoài để tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thúc đẩy xuất khẩu của họ. Kể từ năm 1998, các phái đoàn thương mại đã được cử đến cho các hợp tác xã của từng lĩnh vực công nghiệp.

Chương trình gia nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp lớn và nhỏ, bắt đầu từ năm 2006, nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mục đích của chương trình là giúp các công ty nhỏ tiến ra thị trường nước ngoài bằng cách sử dụng kinh nghiệm và mạng lưới nhân sự của một công ty lớn có độ nhận diện thương hiệu cao trong và ngoài nước. Chính phủ cung cấp chi phí gián tiếp cho các công ty riêng lẻ, trong khi các công ty lớn trang trải các chi phí phát sinh. Các chi phí trực tiếp do các công ty riêng lẻ chịu như chi phí vé máy bay và chỗ ở

6.CHÍNH SÁCH NHÂN SỰ

Tuyển dụng

Thông qua việc thúc đẩy dự án tuyển dụng nhân lực R&D của DNVVN, chính phủ hỗ trợ việc thành lập các văn phòng hợp tác đại học-ngành và các viện nghiên cứu gắn liền với doanh nghiệp để cho phép các DNVVN tận dụng lực lượng lao động dồi dào và nguồn lực R&D vật chất của một trường đại học. Năm 2005, 164 văn phòng hợp tác đại học-ngành đã được lắp đặt và 44 viện nghiên cứu hợp tác giữa các trường đại học với các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập. Đặc biệt, chương trình Tuyển chọn Kỹ thuật viên Công nghiệp được thiết kế để giải quyết các vấn đề thiếu hụt lao động của DNVVN. Chương trình chọn một số trong số những người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ quân sự và thay vào đó gửi họ như kỹ thuật viên công nghiệp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ để sản xuất hoặc chế tạo.

Tập huấn

Chương trình Nâng cấp Cơ cấu Nhân lực DNVVN nhằm mục đích nâng cao năng suất của các DNVVN và giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân lực của họ bằng cách đào tạo nhân viên tại các hợp tác xã DNVVN trong từng lĩnh vực thông qua các khóa học. Kể từ năm 2005, chương trình này có sự tham gia của Liên đoàn Doanh nghiệp vừa và nhỏ, chịu trách nhiệm giám sát chung và các hợp tác xã của nó. Họ tiến hành chương trình sau khi phản ánh nhu cầu của các DNVVN thành viên. Năm 2005, 20 hợp tác xã đã tham gia 205 khóa học giáo dục với sự hiện diện của 6.908 công nhân từ 3.338 doanh nghiệp vừa và nhỏ.

HẾT phần 1

Phần 2 của bài nghiên cứu này sẽ được Trang thông tin điện tử Trung tâm tiếp theo vào ngày 21/01/2022

Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế liên kết nguồn tin và dịch tại Cổng thông tin của Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương PECC

https://www.pecc.org/images/stories/publications/SME-2007-6-SME_Innovation_Policies_in_Korea-Kim.pdf