21 Tháng Sáu, 2022 | 9:30
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter

Chính sách khoa học và công nghệ Trung Quốc: Các hàm ý chuyển đổi công nghiệp thế hệ kế tiếp – Phần 1

Trang tin điện tử Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế giới thiệu tới quý đọc giả bài nghiên cứu của TS Nitin Agarwala và Rana Divyank Chaudha cộng sự, Trường Đại học Khoa học và Công nghệ COHIN, Nghiên cứu Viên Quỹ hàng hải Quốc gia, Newdeli, Ấn Độ

Cải cách từ Chính sách KH&CN

Chính sách KH&CN trong những năm qua đã mang lại nhiều cải cách ở Trung Quốc.  Các cải cách này chủ yếu nhằm mục đích giảm hoặc loại bỏ tài trợ của Nhà nước cho nghiên cứu; khuyến khích chính thức hóa thị trường công nghệ và khuyến khích sáp nhập viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Các chính sách đã được tung ra đưa ra nhận thức rằng KH&CN giống như bất kỳ loại hàng hóa nào khác có thể mua được và bán trên thị trường. Điều này đã thay đổi cách nhìn nhận truyền thống về KH&CN trong cộng đồng. Các lĩnh vực mà những cải cách này nhắm tới bao gồm quyền ra quyết định trong các tổ chức nghiên cứu thuộc sở hữu của chính phủ, chính sách đổi mới tài chính, kinh doanh và cơ chế cạnh tranh thị trường, chính sách pháp luật và con người, chính sách tài nguyên. Để đánh giá tốt hơn những cải cách này, chúng ta sẽ thảo luận về từng cải cách trong số đó chi tiết hơn.

Ra quyết định trong các Cơ quan Nghiên cứu thuộc sở hữu của Chính phủ

Chính sách KH&CN của Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của nhiều bên hơn như học viện, trường đại học và các công ty công nghiệp ở cấp tỉnh và quốc gia.Tương tự, thông qua những cải cách này, quá trình ra quyết định đã trở thành mộtPhương pháp tiếp cận “từ dưới lên”, do đó làm cho việc chuyển đổi “theo định hướng kết quả”, vì các nhà hoạch định chính sách đã được thực hiện. Tuy nhiên, một thay đổi lớn khác mà các chính sách này mang lại là hệ thống trở thành doanh nghiệp thị trường dựa trên thị trường được trao quyền đưa ra quyết định về các vấn đề như định giá.Để mang lại những thay đổi này, Chính phủ Trung Quốc đã sử dụng cơ cấu tổ chức KH&CN để bắt đầu những cải cách cơ cấu cần thiết. Việc tạo ra ‘Nhóm dẫn đầu về Khoa học và Công nghệ’ để cải thiện việc ra quyết định; hồi sinh của Viện Khoa học Trung Quốc (CAS) và trao cho Viện này nhiều quyền hạn hơn để tiến hànhnghiên cứu và ký kết hợp đồng với các công ty nước ngoài và cho phép các trường đại học thực hiện 15% nghiên cứu của họ với sự cộng tác các tổ hợp nhằm cải thiện khả năng tài chính của họ là một số nỗ lực như vậy.Để mang lại những thay đổi này và sự phát triển của KH&CN, cả xã hội trong nước và hệ thống quốc tế được phép thực hiện các phần tương ứng của họ. Đôi khi những nỗ lực của họ có thể chống lại nhà nước, trong khi những lúc khác, họ bổ sung các chính sách và giúp cho sự tiến bộ của KH&CN. Từ năm 1978 đến năm 1985, hiệu ứng này là tối thiểu nhưng tăng lên theo thời gian do sự gia tăng sự tham gia của xã hội Trung Quốc và hệ thống quốc tế để cuối cùng có một tác động đến chính sách KH&CN.

Chính sách tài chính

             Cải cách năm 1986 trong hệ thống tài trợ đã đảm bảo việc sử dụng hiệu quả các nghiên cứu tài nguyên. Hệ thống cấp vốn cũ là hệ thống “hạn ngạch cố định” phụ thuộc vào chủ yếu dựa trên loại hình viện được hỗ trợ và quy mô nhân viên của nó, không có bất kỳ đánh giá số lượng và chất lượng của các dự án hoặc hiệu suất (Baark & Suying, 1990).

             Điều này khiến các viện nghiên cứu hoạt động kém hiệu quả do không có sự cạnh tranh hoặc áp lực trong việc huy động vốn của chính họ. Chính với lý do này mà chính sách Khoa học và Công nghệ nhằm đa dạng hóa nguồn tài trợ từ chính phủ cho lĩnh vực kinh doanh, thực hiện nghiên cứu thương mại có trả tiền, nghiên cứu giới thiệu hoạt động như một tiêu chí để phân bổ vốn và khuyến khích vay từ lĩnh vực ngân hàng (García-Herrero & Santabárbara, 2013).

             Chính sách mới khuyến khích các đơn vị nghiên cứu phát triển công việc học tập của họ xa hơn nữa là hợp tác chặt chẽ với các đơn vị, doanh nghiệp, viện nghiên cứu khác. Hợp đồng nghiên cứu chỉ có thể thực hiện được thông qua đấu thầu với đơn vị nghiên cứu có quyền tự chủ để lựa chọn nhân viên, dự án nghiên cứu của riêng họ và giữ bất kỳ thu nhập nào đạt được, do họ hoàn thành các công trình nghiên cứu theo yêu cầu của Nhà nước, đây thực hiện chính sách theo định hướng kết quả. Tương tự, các nguồn tài trợ đã thay đổi thành hợp đồng với chính phủ và ngành công nghiệp cũng như tài trợ từ nghiên cứu nền móng. Những cải cách này đã thay đổi toàn bộ thành phần quỹ có sẵn cho một cơ sở nghiên cứu. Đến giữa những năm 1990, CAS, trước đó là chính phủ hoàn toàn được tài trợ, hiện đã nhận được 20% tài trợ từ chính phủ quốc gia, 30% từ hợp đồng với các bộ, 30% từ hợp đồng với doanh nghiệp và 20% từ hợp đồng với chính quyền tỉnh và thành phố. Tuy nhiên, một thay đổi khác trong chính sách tài trợ, xuất hiện do MLP, là để “Ngân hàng chính sách” và ngân hàng thương mại, để tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ công nghệ cao và các công ty khởi nghiệp. Thông qua những cải cách này, lĩnh vực ngân hàng đã  lần đầu tiên được đưa vào hệ thống mới do được giao trách nhiệm giám sát việc giải ngân và hoàn trả vốn khi hoàn thành các dự án.

Mặc dù các khoản vay ngân hàng cho KH&CN từ các ngân hàng thương mại là tương đối hiếm ở Trung Quốc, mô hình tài trợ đã thay đổi ở một mức độ đáng kể. Điều này cho phép quỹ KH&CN phi chính phủ (quỹ tự huy động, vốn vay ngân hàng và các quỹ khác) để tăng từ 22,9 tỷ nhân dân tệ năm 1989 lên 177,5 tỷ nhân dân tệ năm 2000. Mặc dù tỷ lệ tài trợ tổng thể từ chính phủ đã giảm, tổng nguồn vốn về mặt giá trị đã tăng lên do nhu cầu ‘bắt kịp’ trong lĩnh vực KH&CN. Điều này đã thay đổi chi tiêu cho R&D như một tỷ trọng của GDP (còn được gọi là cường độ R&D). Với việc tăng kinh phí, số lượng nhân viên R&D được tăng lên đổi mới Doanh nghiệp và Cơ chế cạnh tranh Thị trường             Kế hoạch Ngân sách Quốc gia 5 năm lần thứ 9, Đề cương Mục tiêu Quốc gia 2010 và một loạt các nghị quyết cùng với Đạo luật Thúc đẩy Thương mại hóacác khám phá và phát minh KH&CN năm 1996 đều tập trung vào ba lĩnh vực: chuyển các động lực đổi mới từ các tổ chức nghiên cứu công sang các tổ chức các ngành công nghiệp; nâng cao năng lực R & D và đổi mới của các lĩnh vực công nghiệp và nâng cao hiệu quả của việc thương mại hóa đầu ra học thuật (WIPO, 2015). Để đánh giá cao những thay đổi kết quả, bài viết này khảo sát các khu vực bị ảnh hưởng.

Viện Nghiên cứu

Việc Trung Quốc áp dụng mô hình phát triển của Liên Xô đã mang lại thành lập các trường đại học và viện nghiên cứu chuyên ngành. Những nghiên cứu này các viện là tổ chức công và thực hiện hầu hết tất cả các nghiên cứu cho Trung Quốc, với sự đóng góp của các trường đại học là tối thiểu. Nghiên cứu khoa học này là tập trung vào các dự án liên quan đến quân sự, được lập kế hoạch tập trung, cấp vốn và chiếm đoạt của chính phủ thông qua mệnh lệnh hành chính. Cách tiếp cận này loại trừ bất kỳ đóng góp nào cho nghiên cứu của ngành. Sau năm 1985, để đảm bảo các trường đại học và tổ chức nghiên cứu (URI) cộng tác với ngành, việc cắt giảm ngân sách lớn cho URI đã được thực hiện,và các quy định và luật liên quan đến bằng sáng chế và chuyển giao công nghệ đã được ban hành. Đến những năm 1990, các URI được khuyến khích thành lập các doanh nghiệp của riêng họ, được gọi là các doanh nghiệp liên kết với trường đại học (UAE), và điều này dẫn đến việc thành lập khu phát triển công nghệ cao quốc gia. 52 quốc gia phát triển khu công nghệ cao và 9.687 doanh nghiệp công nghệ cao được thành lập vào năm 1992, đã tăng lên 169 khu trải rộng trên 31 tỉnh vào năm 2018 (MOST, 2018). Với UAE được xác nhận bởi Hội đồng Nhà nước, mối liên kết giữa trường đại học và ngành là được củng cố và các URI chứng kiến quyền tự chủ lớn hơn để thực hiện các nghiên cứu. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu và giáo viên đại học được phép thực hiện các công việc nghiên cứu bán thời gian hoặc toàn thời gian trong các doanh nghiệp hoặc thiết lập công nghệ cao của riêng họdoanh nghiệp trong khi vẫn duy trì vị thế của mình. Điều này cho phép số lượng UAE công nghệ cao tăng lên 2.097 vào năm 2000.

Đến năm 1999, thương mại hóa các thành tựu KH&CN trở thành trọng tâm hàng đầu. Các viện nghiên cứu do chính phủ sở hữu và điều hành đã được chuyển đổi thành xí nghiệp hoặc xí nghiệp dịch vụ kỹ thuật công nghệ cao. Theo đó, các viện nghiên cứu có sự kiểm soát của chính phủ được chuyển đổi thành hệ thống công nghiệp theo định hướng thị trường.

Các viện này sáp nhập với các tập đoàn KH&CN hiện có hoặc chuyển đổi thành các tập đoàn KH&CN trực thuộc địa phương hoặc trung ương. Những thứ kia các viện vẫn còn được chuyển đổi thành các cơ quan và sáp nhập vào các trường đại học hoặc đơn giản là đóng cửa cho thấy những biến đổi này đã xảy ra qua nhiều năm.

Công viên Khoa học, Vườn ươm và Đổi mới sáng tạo

   Với nỗ lực ‘bắt kịp’ và loại bỏ kỹ thuật đảo ngược như một phương tiện về đổi mới, Trung Quốc bắt đầu xem xét cả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nỗ lực bản địa cho các hệ thống đổi mới. Trong khi hệ thống FDI nhằm bù đắp cho sự yếu kém của đổi mới trong nước trong các ngành công nghệ cao, nỗ lực bản địa là thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước với tư cách là những nhà đổi mới và củng cốliên kết ngành – khoa học. Tuy nhiên, sự chung sống của họ phải được duy trì, vàngành công nghiệp địa phương được hưởng lợi từ công nghệ do FDI hỗ trợ, họ yêu cầu học hỏi và tiếp thu năng lực đổi mới mạnh mẽ. Do đó, để thúc đẩy bản địa đổi mới và các công ty nhỏ công nghệ cao, vườn ươm doanh nghiệp công nghệ (TBI) đã thành lập. Mặc dù Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) đã tài trợ vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao vào năm 1988 thông qua ‘chương trình Torch’ và hợp tác giữa nghiên cứu và sản xuất kể từ FYP thứ 6 (1981–1985), TBI đầu tiên ở Eastlake được thành lập vào năm 1987 bên ngoài chính sách công hiện có khuôn khổ khuyến khích các nhà nghiên cứu hàn lâm tạo ra các liên doanh công nghệĐược thúc đẩy bởi cách tiếp cận từ dưới lên như vậy, Hội đồng Nhà nước năm 1996 công bố các quy định để thúc đẩy thương mại hóa R&D và đến năm 2008, đã có 670 TBI có 44.346 dự án kinh doanh và đã sử dụng 928.000 người tạo ra khoảng 31.764 dự án kinh doanh. Tương tự, để hỗ trợ tăng trưởng công nghiệp tự duy trì dựa trên mạng lưới hợp tác thông qua thương mại hóa các thành tựu nghiên cứu, khoa học và công nghệ, các khu công nghiệp (STIP) được chính phủ Trung Quốc thúc đẩy từ những năm 1980. STIP đầu tiên ở Trung Quốc là Beijing Zhongguancun STIP (Z-park) hoặc Thung lũng Silicon Trung Quốc, được phê duyệt vào năm 1988, bao gồm 32 trường đại học và cao đẳng và 84 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia chiếm một phần ba tổng đầu tư vào công nghệ cao của các công ty khởi nghiệp ở Trung Quốc. Đến năm 1999, có 26 STIP quốc gia, tăng lên 54 vào năm 2007 và 89 vào năm 2011, trong đó gần 20% thuộc sở hữu tư nhân trong khi phần còn lại có tình trạng ‘quốc gia’ (Zhang & Sonobe, 2011).Yêu cầu đối với một công ty công nghệ cao để tham gia STIP là nghiêm ngặt và được đặt ra xuất hiện nhiều nhất trong danh mục Sản phẩm Công nghệ Cao và Mới của họ. Các công ty này có thể theo định hướng nghiên cứu hoặc nhà sản xuất. Như một động lực, các công ty đang miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm đầu và được hưởng ưu đãi thuế suất 15% kể từ năm thứ ba trở đi, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp tỷ lệ 25%. Doanh thu do chuyển giao công nghệ tạo ra phải chịu thuếngoài 300.000 nhân dân tệ đầu tiên (hoặc khoảng 45.000 đô la Mỹ) (Zhang & Sonobe, 2011). Cơ quan hải quan không yêu cầu giấy phép nhập khẩu khi nhập khẩu nguyên liệu và bộ phận từ nước ngoài nếu nguyên liệu và bộ phận được sử dụng để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Trong hai thập kỷ qua, các STIP này đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc.Ngoài các khu công nghệ và vườn ươm, yếu tố quan trọng thứ ba của chương trình Torch là ‘InnoFund’, cung cấp các cơ hội đầu tư cổ phần và trợ cấp lãi suất cho vay đối với các khoản vay phát triển hiện có. Kể từ năm 1999, 9.000 dự án đã được phê duyệt và 1 tỷ đô la chính sách lập pháp
Quyền sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh

Sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) vào năm 1980, nó đã được cấp bằng sáng chế luật SHTT về Công ước Berne về Bảo hộ Văn học và Tác phẩm nghệ thuật và Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của trí tuệ-Quyền sở hữu (TRIPS). Sau đó gia nhập Công ước Paris về Bảo vệSở hữu công nghiệp năm 1984 và Thỏa ước Madrid về quốc tế đăng ký nhãn hiệu vào tháng 6 năm 1989.Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc và tham gia Thương mại Thế giới Tổ chức (WTO) vào năm 2001, đã thực hiện những cải cách lớn trong luật SHTT của mình được xây dựng dựa trên ba luật quốc gia: Luật Sáng chế, Luật Nhãn hiệu và Bản quyền, Luật (Weightman, 2018). Mặc dù Trung Quốc đã đưa ra luật bao gồm mọi khía cạnh bảo vệ sở hữu trí tuệ (IP) và hầu hết các luật sư phương Tây thấy cơ quan luật kết quả là toàn diện, có hệ thống và quen thuộc việc thực thi của họ không được như vậy do sự cần thiết phải duy trì quyền lực của Nhà nước để kiểm duyệt tất cả các ấn phẩm và mong muốn tránh xa ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Chính các vấn đề là chủ nghĩa bảo hộ tư pháp địa phương, những thách thức trong việc thu thập bằng chứng, giải thưởng nhỏ thiệt hại và sự thiên vị được nhận thức đối với các công ty nước ngoài.

Hết Phần 1- Phần 2 của bài viết này sẽ được giới thiệu tới quý đọc giả vào ngày 23/06/2022

Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế dịch và Liên kết nguồn gtin từ Cổng thông tin nghiên cứu Research Gate

https://www.researchgate.net/publication/334102104_China%27s_Policy_on_Science_and_Technology_Implications_for_the_Next_Industrial_Transition

file:///C:/Users/Asus%20X413/Downloads/ICWA-2019-ChinasPolicyon.pdf