“Cuộc cách mạng 4.0 đã tạo ra nhiều cơ hội những cũng không ít thách thức cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm có thể nâng cao được hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình khởi nghiệp ở Việt nam hiện nay. Bài viết tập trung nghiên cứu các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và cả những thách thức của khởi nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0. Qua đó chỉ ra các một số nguyên nhân quan trọng làm cho khởi nghiệp ở Việt nam chưa thực sự mang lại hiệu quả cao đó chính là chưa tạo ra được một hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ thống pháp lý còn thiếu, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khởi nghiệp còn yếu cả về vốn, ý tưởng đổi mới sáng tạo và chưa tận dụng được các điểm mạnh của cuộc cách mạng 4.0 mang lại. Trong bối cảnh đó, chính phủ cần xây dựng được một hệ sinh thái khởi nghiệp, tạo lập được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn, có cơ chế chính sách giúp doanh nghiệp khởi nghiệp tăng cường đổi mới sáng tạo theo hướng phát triển các ngành sử dụng công nghệ số”.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (The Fourth Industrial Revolution) đang được hình thành trên nền tảng của CMCN lần thứ 3. Các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Một số chuyên gia gọi đây là cách mạng công nghiệp thế hệ 4.0. Đó là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống thực và ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS). Trong đó, các “sản phẩm thông minh” gắn đầy cảm biến báo cho máy móc biết chúng cần được xử lý như thế nào; các quy trình sẽ có quyền tự trị trong một hệ thống mô-đun phân cấp. Các thiết bị nhúng thông minh làm việc với nhau qua mạng không dây hoặc thông qua “đám mây” được lưu trữ. Một đặc điểm của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là số vốn đầu tư ban đầu có thể không lớn, nhưng lợi nhuận thu về cao, điều này sẽ thuận lợi cho các nhà khởi nghiệp vì họ thường là không có nhiều vốn. Đây sẽ là một trong những thuận lợi lớn cho các nhà khởi nghiệp trong tương lai. Ở Việt nam, thúc đẩy khởi nghiệp được coi là mục tiêu và đồng thời là phương tiện để thực hiện ba đột phá chiến lược của Việt Nam, bao gồm thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực. Các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, các cuộc tọa đàm, hội thảo được tổ chức với tần suất ngày một tăng. Nhiều chính sách, luật và chương trình khuyến khích khởi nghiệp đã và đang được xây dựng, ban hành. Thúc đẩy khởi nghiệp ở Việt Nam đang góp phần cho sự thịnh vượng của nền kinh tế, cho sự tiến bộ xã hội. Bài viết sẽ tập trung vào tìm hiểu thực trạng của các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt nam hiện nay, qua đó sử dụng mô hình phân tích SWOT để đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và cả những thách thức mà các doanh nghiệp khởi nghiệp đối mặt nhằm đưa ra các giải pháp thúc đẩy phong trào khởi nghiệp phát triển mạnh mẽ và hiệu quả hơn trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Một vài năm vừa qua, cụm từ “khởi nghiệp” xuất hiện dày đặc trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các diễn đàn chính sách hoặc các diễn đàn học thuật. Hiện nay, mọi sự quan tâm khi nói về khởi nghiệp đều được hướng tới các“start-up” – những doanh nghiệp kỳ vọng vào sự tăng trưởng mạnh mẽ nhờ công nghệ hoặc những sáng tạo mang tính đột phá. Tuy nhiên, thực chất khởi nghiệp là hành động bắt đầu một nghề nghiệp mà hình thức thường thấy nhất đó là thành lập một doanh nghiệp để kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó. Để đánh giá thực trạng của khởi nghiệp Việt nam trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 cũng như tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy khởi nghiệp tại việt nam, bài viết sử dụng mô hình phân tích SWOT. Phân tích SWOT là một công cụ hữu hiệu giúp nhận thấy những điểm mạnh và điểm yếu, ngoài ra còn tìm thấy cả những cơ hội cũng như những thách thức mà khởi nghiệp Việt nam phải đối mặt trong bối cảnh của cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra.
3.1. Thực trạng khởi nghiệp ở Việt nam hiện nay
Về số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp
Khởi nghiệp Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn, tính từ thời điểm năm 2000 với những gương mặt khởi nghiệp thành công ở giai đoạn 1 như: VNG, Vatgia, Socbay… Tại giai đoạn đầu, Khởi nghiệp Việt Nam gần như không thu hút được nhiều sự quan tâm. Lý do căn bản xuất phát từ truyền thông khởi nghiệp lúc bấy giờ chưa phát triển và những người đi đầu trong lĩnh vực này chưa minh chứng được tiềm năng thành công. Hiện nay, khởi nghiệp Việt Nam đang bước sang giai đoạn 3 khá ấn tượng với không ít Start-ups Việt đã vươn mình mạnh mẽ ra các sân chơi quốc tế và dành được một số thành tựu nhất định. Điều này được thể hiện ngay trong báo cáo tình hình đăng ký doanh nghiệp mới được thành lập trong 2 tháng đầu năm 2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước có 14.451 doanh nghiệp mới được thành lập với số vốn đăng ký đạt 152.558 tỷ đồng, tăng 3,9% về số lượng và 35% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm ngoái. Tại Việt Nam, năm 2016 đã được xác định là năm quốc gia khởi nghiệp. Và giai đoạn 2017 – 2020 được xem là thời kỳ vàng cho khởi nghiệp với sự ra đời của hàng loạt công ty khởi nghiệp. Các ý tưởng kinh doanh không chỉ được hiện thực hóa dưới hình thức doanh nghiệp, mà còn theo hình thức cơ sở kinh tế cá thể phi nông nghiệp (hộ kinh doanh), trang trại hoặc cá nhân tự kinh doanh.
Tuy nhiên, Khởi nghiệp Việt Nam đang vấp phải sự thiếu thống nhất trong mạng lưới phát triển và hạn chế trong kết nối với các nguồn lực khởi nghiệp trong và ngoài cộng đồng. Bên cạnh đó, phần lớn các kênh truyền thông chính của khởi nghiệp đang chạy đua trong cập nhật nhưng thông tin và xu hướng mới nhất trên thế giới thay vì tập trung tìm hiểu và phân tích thực trạng của khởi nghiệp Việt như phát triển thiếu tính bền vững với tỷ lệ thất bại lên đến 80% trong ba năm đầu tiên hay khoảng cách trong quan điểm của những người nước ngoài về xây dựng vốn cho khởi nghiệp tại Việt nam… dẫn đến thông tin chiều sâu thì thiếu mà thông tin bề nổi bị bão hòa, gây nhiễu trong định hướng phát triển của các đơn vị khởi nghiệp trẻ.
Về lĩnh vực khởi nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động không nhỏ đến lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Hiện tại, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ vượt trội hơn hẳn so với các startup trong lĩnh vực khác. Nhiều startup Việt cũng đang chọn cho mình theo hướng công nghệ (Tech Startup). Do đặc điểm của các startup công nghệ là không cần quá nhiều vốn ban đầu nếu so với các ngành nghề khác và có thể dễ dàng học hỏi từ những mô hình đi trước trên thế giới. Ngành nghề khởi nghiệp có sự phân hóa đa dạng. Một số ngành có số lượng doanh nghiệp đăng ký tăng cao trong những năm qua như ngành bất động sản (86,2%); nghệ thuật, vui chơi giải trí (59,3%); vận tải kho bãi (39,3%); dịch vụ việc làm (35,5%) và đặc biệt những ngành sử dụng khoa học công nghệ cao cũng ngày càng tăng lên như ngành khoa học công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kết (35,4%); thông tin và truyền thông (11,7%)…Về chủ doanh nghiệp khởi nghiệp
Phần lớn các chủ doanh nghiệp bắt đầu khởi nghiệp có độ tuổi từ 30 trở lên, chiếm 72% trong số các chủ doanh nghiệp khởi nghiệp. Trong đó hầu hết đều có bằng đại học chiếm 84%, trong khi đó số chủ doanh nghiệp không có bằng đại học chỉ chiếm 16%. Hầu hết các doanh nhân khởi nghiệp xuất thân từ khu vực tư nhân. có tới 73% doanh khu vực tư nhân. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kế, trong năm 2014 số cơ sở kinh tế cá thể phi nông nghiệp là 4.671.339 cơ sở, tăng 135.293 cơ sở so với năm 2013, năm 2015 số cơ sở này là 4.754.826, tăng thêm 83.478 cơ sở kinh tế cá thể phi nông nghiệp. Trong khi đó, số cơ sở kinh tế cá thể trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ tăng thêm 2.275 cơ sở trong năm 2015 (so với năm 2014), chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ. Mục đích tham gia khởi nghiệp của các chủ doanh nghiệp đều là muốn độc lập về tài chính (59%), muốn tự làm chủ (41%) và đam mê điều mới mẻ (31%) [ Cổng thông tin đăng ký thành lập doanh nghiệp, 2015].
Về hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam
Hầu hết các doanh nghiệp khởi nghiệp đều có đặc điểm là đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, có 86% doanh nghiệp khởi nghiệp đang trong thời kỳ định hình doanh nghiệp, 8% ở giai đoạn mở rộng thị trường. Bên cạnh đó, quy mô lao động của các doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ, 63% dưới 10 lao động, 30% có 10 – 49 lao động, và chỉ có 7% trên 50 lao động. [VCCI , 2016). Rất ít các doanh nghiệp khởi nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, các hoạt động chủ yếu vẫn chỉ nằm ở thị trường trong nước.
Nhìn chung, về hiệu quả kinh doanh, các thống kê gần đây đều phản ánh một thực trạng đáng buồn, đó là startup Việt ra đời thì nhiều và đa phần đều thất bại. Cụ thể là chỉ có 3% startup Việt là thành công thực sự, tức là thỏa mãn được một trong các tiêu chí: được định giá từ 10 triệu USD trở lên; doanh thu từ 2 triệu USD; có từ 100 nhân viên; đã gọi vốn vòng 2 hoặc đã bán được công ty với giá tốt [VCCI survey, 2016). Trong số các doanh nghiệp khởi nghiệp được xem là thành công này, theo kết quả khảo sát của VCCI cho 78% các chủ doanh nghiệp từng làm thuê hoặc khởi nghiệp thất bại ở 2 công ty trước đây; 45% từng học hoặc làm việc tại nước ngoài trước khi về nước khởi nghiệp; thời gian trung bình dành cho startup đến lúc thành công là 5,7 năm và sẽ mất lâu hơn nữa để trở thành công ty có giá trị hàng trăm triệu USD; và 100% đều học hỏi và bản địa hoá từ mô hình tương tự đã thành công ở nước ngoài.
Thực tế tại Việt Nam cho thấy, hàng năm, cùng với sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp được thành lập mới ngang bằng với lượng doanh nghiệp giải thể/ngừng hoạt động. Cụ thể, năm 2013, lượng doanh nghiệp đăng ký mới và lượng doanh nghiệp giải thể/ngừng hoạt động lần lượt tăng 10,1% và 11,9% so với năm 2012. Đến năm 2014, số doanh nghiệp giải thể/ngừng hoạt động tiếp tục tăng 11,7% trong khi số doanh nghiệp đăng ký mới giảm 2,7% so với năm 2013 [VCCI, 2016]. Con số này phần nào cảnh báo về cách thức tổ chức kinh doanh của một bộ phận không nhỏ các khởi nghiệp Việt Nam, phần đông đang có xu hướng bắt chước các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh có sẵn trên thị trường. Tư duy này hoàn toàn đi ngược với những kết luận về mối liên quan mật thiết giữa khởi nghiệp và sáng tạo đã được nhiều nghiên cứu khẳng định.
3.2. Phân tích SWOT khởi nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
a)Điểm mạnh
Thứ nhất, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định tác động tích cực đến sự phát triển của phong trào khởi nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0. Việt nam được đánh giá là một trong những quốc gia có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, đây sẽ là yếu tố nuôi dưỡng kỳ vọng và quyết tâm của người dân về khởi nghiệp, giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp yên tâm trong việc đầu tư cho khởi nghiệp. Nhà nước với vai trò của mình đang tích cực đảm bảo được sự ổn định vĩ mô thông qua việc xây dựng và thực hiện hiệu quả các chính sách về kinh tế vĩ mô, quản lý nền kinh tế một cách khéo léo, thận trọng. Theo diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2016, Việt nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế vĩ mô ổn định, trong số 144 quốc gia được xếp hạng với điểm số 7 là cao nhất, thì chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô trong chỉ số Năng lực cạnh tranh Quốc gia là 4.7 [Lê Duy Bình, 2017]. Trong năm 2017, hành lang pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cũng đã được hoàn thiện thêm một bước sau khi Quốc hội thông qua Luật Chuyển giao công nghệ 2017, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong đó, có nhiều quy định mới hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm lẫn các nhà đầu tư cá nhân đều có sự tăng trưởng cao hơn.
Thứ hai, phong trào khởi nghiệp nhận được sự quan tâm hỗ trợ mạnh mẽ từ phía Chính phủ, các bộ và các tổ chức xã hội.
Hiện tại, phong trào khởi nghiệp đang phát triển mạnh mẽ tại Việt nam có sức lan tỏa đến cá nhân trong xã hội. Một nghiên cứu vừa được công bố tại Diễn đàn Khởi nghiệp trẻ 2017 cho biết, Việt Nam đang đứng đầu thế giới về Chỉ số tinh thần khởi nghiệp. Khảo sát về tinh thần khởi nghiệp (AGER) tại 45 quốc gia với 50.861 người từ 14 tuổi trở lên vừa được công bố bởi sự phối hợp thực hiện của Tập đoàn Amway, Đại học Technische Universitat Munchen (TUM) và công ty nghiên cứu thị trường GFK. Đáng chú ý, theo báo cáo này, Việt Nam đứng đầu thế giới về Chỉ số tinh thần khởi nghiệp (AESI) và thứ 2 về Thái độ tích cực đối với khởi nghiệp đã góp phần lan tỏa tinh thần khởi nghiệp trong giới trẻ Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam đang được nhận định là thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiêp số khởi nghiệp.
Thế giới đang chứng kiến sự chuyển mình của các doanh nghiệp trong việc số hóa hoạt động kinh doanh. Tại quốc gia phát triển như Singapore có tới hơn 60% tổng số giao dịch thanh toán không sử dụng tiền mặt. Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư, tính tới năm 2017, Việt Nam đã có gần 210 website có nội dung liên quan đến thương mại điện tử được thành lập, doanh thu từ thương mại điện tử năm 2017 đạt khoảng 2,08 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng khoảng 20%/năm, doanh thu toàn thị trường quảng cáo trực tuyến Việt Nam năm 2017 vào khoảng 76 triệu USD, trong đó 36% doanh thu toàn thị trường quảng cáo trực tuyến được tạo ra thông qua điện thoại di động. Đặc biệt, Việt Nam đang có tỷ lệ sử dụng smart phone ở mức rất cao trên 80% ở thành phố lớn và trên 60% ở vùng nông thôn. Đây là cơ sở ban đầu để các doanh nghiệp tận dụng và đưa ra được giải pháp nhằm khuyến khích người dân tăng nhu cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Những số liệu trên cho thấy, tiêu dùng số đang thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi mô hình số. Đây cũng là cơ hội lớn cho các startup nếu biết cách tranh thủ nắm bắt được nhu cầu thị trường để phát triển trong bối cảnh của cuộc cách mạng 4.0.
b)Điểm yếu
Một là, về hệ thống pháp lý và các rào cản thủ tục hành chính.
Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ đang đẩy mạnh những cải cách về môi trường kinh doanh của Việt Nam. Cải cách trên nhiều lĩnh vực tiếp tục được diễn ra. Tuy nhiên, những chuyển động từ thực tế còn chậm chạp và chưa đáp ứng được mong mỏi của cộng đồng khởi nghiệp. Gánh nặng thủ tục hành chính, chi phí không chính thức trong các quy định làm cho môi trường kinh doanh không được thuận lợi đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, vấn đề như thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép con, khó thoái vốn sau một thời gian đầu tư tại Việt Nam luôn khiến các nhà đầu tư ngại đầu tư vào Việt Nam. Theo thống kê năm 2016, tổng giá trị đầu tư vào các startup tại khu vực Đông Nam Á là khoảng 1,5 tỷ USD. Song ở Việt Nam, con số này chỉ là dưới 100 triệu USD, 80% số tiền còn lại đổ vào Indonesia và Singapore bởi chính sách hỗ trợ startup, gọi vốn của họ tốt hơn nhiều so với Việt Nam [Luu Gia Binh, 2017].
Trong thời gian tới, việc xây dựng hành lang pháp lý phù hợp và hệ sinh thái khởi nghiệp là thật sự cần thiết để hỗ trợ cho các startup trong bối cảnh mới.
Hai là, về hệ thống giáo dục.
Giáo dục khởi nghiệp chưa được chú trọng đúng mức. Nhìn chung, hai hạn chế chính của hệ thống giáo dục, dạy nghề hỗ trợ khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay là việc giáo dục khởi nghiệp ở Đại học chưa được chú trọng đúng mức và các chương trình đào tạo về khởi nghiệp (nếu có) thì lại chưa bài bản, còn thiếu tính thực tiễn. Nhiều sinh viên không có các cơ hội gặp gỡ những doanh nhân khởi nghiệp từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để học hỏi, chia sẻ do đó họ khó có thể tự khám phá con đường khởi nghiệp thích hợp cho bản thân mình.
Ba là hạn chế từ điểm yếu của các nhà khởi nghiệp.
– Rào cản lớn nhất đó chính là tiếng Anh. Nhiều nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài gặp khó khăn trong giao tiếp và hiểu các doanh nghiệp khởi nghiệp về sản phẩm, dịch vụ của họ. Các nhà khởi nghiệp Việt Nam đang đánh mất cơ hội của mình trước các khởi nghiệp nước ngoài do khả năng ngôn ngữ kém, khả năng biểu đạt ý tưởng kém và thiếu sự tự tin cần thiết khi giao tiếp bằng ngôn ngữ nước ngoài. cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 kết nối các quốc gia gần nhau hơn, việc thiếu kỹ năng cơ bản này đang hạn chế rất nhiều cơ hội tiếp cận các nhà đầu tư nước ngoài và do đó giảm năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp.
– Doanh nghiệp khởi nghiệp còn thiếu và yếu kiến thức nền tảng. Sự thiếu hiểu biết của startup về những vấn đề có liên quan đến kinh doanh chuyên nghiệp cũng là một cản trở đến sự thành công của các khởi nghiệp. Trong đó có hiểu biết về tài chính, luật pháp và thị trường. Họ thiếu hiểu biết về tài chính trong khi các nhà đầu tư cần con số về tiềm năng công việc kinh doanh một cách thực tiễn để có thể ra những quyết định trên khoản tiền đầu tư của họ. Họ thiếu hiểu biết nên vướng vào nhiều vấn đề như thiếu cân nhắc về loại hình công ty khi thành lập, không bảo hộ sở hữu tài sản trí tuệ
– Hầu hết các doanh nghiệp khởi nghiệp đều hạn chế về vốn. Hiện số lượng start up đang tăng trong khi quỹ đầu tư lại ít ỏi. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng kỳ vọng startup phát triển lên một mức nhất định và sau đó bỏ vốn vào để các doanh nghiệp khởi nghiệp phải cạnh tranh quyết liệt để lấy vốn.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0, Việt Nam đã đạt được những thành công ban đầu khi khởi nghiệp và có một thế hệ khởi nghiệp trẻ và năng động hơn. Ngoài lợi thế bùng nổ về công nghệ, mở cửa thị trường, tư duy quản lý mở, thế hệ khởi nghiệp này còn có lợi thế về thị trường khi Việt Nam mở cửa rộng rãi vào nền kinh tế thế giới thông qua một loạt thỏa thuận thương mại từ Á sang Âu. Và họ có nhiều cơ hội hơn khi Internet, Smartphone bùng nổ cùng với sự phát triển của thương mại điện tử. Có rất nhiều công ty khởi nghiệp thành công như Flappy Bird, Foody.vn, Haravan, Fibo … Điều này đã khiến Việt Nam trở thành một điểm sáng trong phong trào khởi nghiệp công nghệ. Việt Nam là một thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp kỹ thuật số. Theo báo cáo của Vibiz, tính đến năm 2017, Việt Nam có gần 210 trang web có nội dung liên quan đến thương mại điện tử. Doanh số bán lẻ thương mại điện tử năm 2017 đạt khoảng 2,08 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng khoảng 20% mỗi năm. Báo cáo cũng cho biết, doanh thu của thị trường quảng cáo trực tuyến của Việt Nam năm 2017 là khoảng 76 triệu đô la, trong đó 36% doanh thu thị trường quảng cáo trực tuyến được tạo ra thông qua điện thoại di động. Những số liệu này cho thấy tiêu dùng kỹ thuật số đang thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi các mô hình kỹ thuật số. Đây cũng là một cơ hội tuyệt vời cho các công ty khởi nghiệp nếu biết cách nắm bắt thị trường cần phát triển. Vì vậy, cơ hội chính của các công ty mới thành lập là nắm bắt được thị trường cần phải triển khai kế hoạch kinh doanh. Việt Nam có tỷ lệ thâm nhập điện thoại thông minh rất cao, 80% ở các thành phố lớn và hơn 60% ở nông thôn. Tuy nhiên, đây chỉ là cơ bản ban đầu, điều quan trọng là các doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế này, đưa ra các giải pháp để khuyến khích mọi người tăng nhu cầu cho sản phẩm của họ.
d)Thách thức trong khởi nghiệp ở Việt Nam
Theo đánh giá chung, startup vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Bởi vì hầu hết các công ty mới thành lập thường trẻ, nguồn tài chính không nhiều, nhân viên không chuyên nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp bối rối về kiến thức về thủ tục hành chính, pháp lý … Vì vậy, thị trường Việt Nam có cơ hội rất thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, nhưng cũng khó định hướng, chia sẻ kinh nghiệm thực tế từ các công ty khởi nghiệp trong và ngoài nước thành công. Nói cách khác, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp cần có sự hướng dẫn và hỗ trợ cụ thể hơn như: Đưa ra ý tưởng hoặc dự án để hỗ trợ vốn, điều hướng những người trẻ làm và cho phép họ cố gắng hết sức. Do đó, trong bối cảnh của cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là khuyến khích các công ty khởi nghiệp là tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp. Hiện tại, trong số các tổ chức này, chính phủ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp.
Trong 10 năm qua, chính phủ Việt Nam đã nỗ lực nâng cấp hệ sinh thái khởi nghiệp. Ví dụ, ra mắt hình thức R & D của các tổ chức công cộng và tư nhân, như Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) hoặc Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia (NATIF). Điều này góp phần hình thành các doanh nghiệp mới được áp dụng kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, việc phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, các hành vi pháp lý vẫn chủ yếu đề cập đến các doanh nghiệp nói chung, trong khi các quy định cho các doanh nghiệp khởi nghiệp (đặc biệt là khởi nghiệp sáng tạo) còn thiếu vắn khá nhiều. Chẳng hạn, quỹ đầu tư mạo hiểm – một hình thức đầu tư mới tại Việt Nam không có quy định pháp lý cụ thể. Ngoài ra, các cơ chế pháp lý để nhận ra giá trị tiền tệ của tài sản vô hình trong góp vốn, cho vay thế chấp hoặc bảo vệ quyền sở hữu tài sản trí tuệ cho các công ty khởi nghiệp nên cụ thể hơn.
Một lĩnh vực khác mà chính phủ cần chú ý để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp là tài chính khởi nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp khởi nghiệp đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận khoản vay vì thủ tục quá phức tạp hoặc họ không biết rõ về ngân hàng. Theo khảo sát cấp tỉnh của VCCI và USAID về chỉ số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thực hiện trong 11 năm qua cho thấy việc tiếp cận vốn luôn là vấn đề hàng đầu của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Theo kết quả khảo sát PCI năm 2015, 35% doanh nghiệp mới thành lập trong vòng 3 năm có khoản vay từ ngân hàng, trong khi con số này đối với các doanh nghiệp có thời gian thành lập hơn 3 năm là 53%. Đồng thời, vai trò của chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp cũng cần được cải thiện. Hiện tại, nhiều chính quyền địa phương không có chính sách cải thiện môi trường kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, để xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp tốt, chính quyền địa phương cũng phải tham gia và có giải pháp chi tiết với các chuyên gia và cộng đồng doanh nhân khởi nghiệp.
Thứ nhất, thúc đẩy cách mạng Công nghiệp 4.0 và tăng khả năng tiếp cận khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp này được đặc trưng bởi sự kết hợp của các công nghệ làm mờ ranh giới giữa vật lý, số hóa và sinh học. Đây là xu hướng kết hợp giữa hệ thống thực và ảo, Internet of Thing (IoT) và hệ thống kết nối Internet (IoS). Công nghiệp
4.0 không chỉ là về máy móc, hệ thống thông minh và kết nối, mà còn có phạm vi rộng hơn nhiều. Đồng thời, có những làn sóng đột phá hơn nữa trong các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa trình tự gen đến công nghệ nano, từ năng lượng tái tạo đến điện toán lượng tử. Công nghiệp 4.0 là sự hợp nhất của các công nghệ này và sự tương tác của chúng trong các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học.
Thứ hai, tập trung vào giáo dục khởi nghiệp.
Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố chính của khởi nghiệp. Do đó, chúng ta cần tập trung vào các chương trình khởi nghiệp trong giáo dục đại học. Các chương trình đào tạo phải phù hợp với nội dung khởi động, đảm bảo tính đặc thù và hệ thống. Nó sẽ cung cấp cho sinh viên kiến thức về quản trị doanh nghiệp và các kỹ năng mềm khác để phát triển ý tưởng khởi nghiệp sau khi tốt nghiệp. Các trường đại học và cơ sở đào tạo cần đánh giá lại hiệu quả của các chương trình giảng dạy hiện tại liên quan đến khởi nghiệp, bao gồm các đánh giá dựa trên phản hồi của sinh viên. Nhà trường nên tổ chức các sự kiện mời lãnh đạo doanh nghiệp, chuyên gia nói chuyện với sinh viên hoặc thậm chí mời họ tham gia trực tiếp vào việc giảng dạy sinh viên, hướng dẫn sinh viên tham gia các dự án của họ.
Thứ ba, xây dựng một hệ sinh thái phù hợp và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp.
Hệ sinh thái khởi nghiệp bao gồm sự tham gia của các bên liên quan và các tổ chức khác nhau. Nó thực hiện ba nhóm chức năng: (i) chức năng khởi nghiệp (như khởi nghiệp mới thành lập), (ii) chức năng hỗ trợ (ví dụ: chính phủ, trường đại học, viện nghiên cứu, cố vấn chuyên gia); và (iii) chức năng đầu tư (thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư thiên thần, tổ chức xúc tiến kinh doanh). Sự tương tác giữa các bên liên quan trong hệ sinh thái khởi nghiệp là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của các công ty khởi nghiệp. Trong các tổ chức này, chính phủ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp. Chính phủ cần xem xét thêm các quy định cho hỗ trợ khởi nghiệp. Chúng ta cần các quỹ đầu tư mạo hiểm hiển thị và có các quy định pháp lý cụ thể để quỹ hoạt động hiệu quả. Chúng ta cần ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, các cơ chế pháp lý để nhận ra giá trị tiền tệ của tài sản vô hình trong việc góp vốn để thành lập công ty, cho vay thế chấp hoặc bảo vệ quyền sở hữu tài sản trí tuệ. Nó nên được quy định cụ thể hơn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Thứ tư, cải thiện khả năng tiếp cận tài chính của các doanh nghiệp khởi nghiệp, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Thiết lập các kênh để cung cấp tài chính cho các công ty mới khởi nghiệp như các khoản vay từ gia đình, ngân hàng thương mại, vốn cổ phần tư nhân hoặc thông qua các quỹ đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư mạo hiểm. Tạo cơ chế cho các doanh nghiệp khởi nghiệp để dễ dàng chứng minh các điều kiện để tiếp cận các quỹ đầu tư này. Ngoài ra, chính phủ nên tập trung vào tài chính cho các công ty khởi nghiệp. Hầu hết các công ty mới thành lập đều gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng ngân hàng do thủ tục phức tạp hoặc thiếu tài sản đảm bảo được ngân hàng yêu cầu. Do đó, cần xem lại thủ tục vay ngân hàng, giúp các công ty khởi nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn kinh doanh hơn.
Thứ năm, duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các công ty khởi nghiệp.
Một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định sẽ nuôi dưỡng những kỳ vọng và quyết tâm của mọi người để bắt đầu kinh doanh. Điều này đòi hỏi chính phủ phải xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô hiệu quả, có thể quản lý nền kinh tế một cách khéo léo và cẩn thận để giúp nền kinh tế không rơi vào tình trạng bất ổn. Thật khó để tưởng tượng rằng sự nhiệt tình của người dân, của những người trẻ tuổi sẽ vẫn ở trong một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, lãi suất ngân hàng cao hơn lợi nhuận trung bình, nợ công cao, tỷ giá hối đoái không ổn định và thâm hụt ngân sách cao. Sự ổn định của kinh tế vĩ mô làm cho các công ty khởi nghiệp tin tưởng vào tương lai lâu dài và được đặt cược miễn cưỡng lớn hơn trong tương lai đó.
1.Le Duy Binh and associates (2017), Vietnam – good soil for start-up: why not?, Vietnam Chamber of Commerce and Industry (VCCI)
2.Hans-Christian Pfohl, Burak Yahsi (2015), The Impact of Industry 4.0 on the supply chain, Proceed of the Humburg international Conference of Logistics (HICL), ISBN (online): 978-3-7375-4059-9, ISBN (print): 978-3-73.
3.Philipp Gerbert and associates (2015), Industry 4.0: The future of productivity and growth in manufacturing industries,The Boston Consulting Group.
4.Schumpeter, J. A. (2008), Capitalism, socialism, and democracy, New York: Harper Perennial Modern
5.Report in 2015, 2016 of Vietnam Chamber of Commerce and Industry (VCCI)
Nguồn/tạm dịch : Research Paper, Global Journal of Advanced Research , Vol 5, Issue 9 (http://gjar.org/archive.aspx)
Author: Dr.Vu Van Hung ( Thuongmai University , Vietnam) & Dr. Ho Kim Huong (Vietnam Youth Academy, Vietnam)
Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *
Bình luận
Tên *
Thư điện tử *
Trang web